Việt Nam nên dừng chương trình điện hạt nhân

Posted on March 28, 2011

0



Nổ lớn tại nhà máy điện hạt nhân Nhật sau động đất và sóng thần

Nếu không xử lý được các sự cố đang xẩy ra, thì thảm họa hạt nhân Fukushima, Nhật Bản, sẽ còn lớn hơn nhiều so với thảm họa Tchernobyl. Từ hơn hai tuần nay, trước những khó khăn, lúng túng của các nhân viên kỹ thuật Nhật Bản trong việc khắc phục hàng loạt vụ nổ, hỏa hoạn liên tiếp xẩy ra ở các lò hạt nhân nhà máy điện Fukushima, theo giới chuyên gia, lời cảnh báo nói trên là có cơ sở và chính đáng.

Ngay sau sự cố Fukushima, tất cả các nước hiện khai thác điện hạt nhân đã có phản ứng nhanh chóng, thông báo sẽ tiến hành tăng cường kiểm tra, rà soát lại các biện pháp bảo đảm an toàn, sẵn sàng đóng cửa những cơ sở không đáp ứng tiêu chuẩn, hoặc đã cũ. Nhiều quốc gia chuẩn bị phát triển điện hạt nhân tuyên bố đình chỉ, xem xét lại các dự án trong lĩnh vực này.

Còn tại Việt Nam, giới hữu trách trấn an công luận một cách ngắn gọn : sẽ ưu tiên chú trọng đến vấn đề an toàn hạt nhân. Điều này có nghĩa là không có gì thay đổi trong kế hoạch xây dựng 8 lò hạt nhân trong những năm tới.
Sự cố điện hạt nhân Fukushima đã dấy lên cuộc tranh luận là Việt Nam có nên phát triển loại năng lượng này hay không ? Trong tạp chí hôm nay, RFI xin giới thiệu ý kiến cá nhân chuyên gia Nguyễn Khắc Nhẫn, nguyên cố vấn Nha Kinh tế, Dự báo, Chiến lược của tập đoàn điện lực Pháp EDF.

Trong nhiều năm qua, giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn đã miệt mài viết hàng chục bài về vấn đề năng lượng tại Việt Nam. Quan điểm của ông không thay đổi từ trước đến nay : Việt Nam không nên phát triển điện hạt nhân mà cần chú ý tới các loại năng lượng tái tạo khác. Sau phần giải thích, phân tích kỹ thuật về hiểm hoạ điện hạt nhân, phần cuối bài phỏng vấn này, liên quan đến Việt Nam, có thể coi như là một lời kêu gọi tâm huyết của vị giáo sư luôn quan tâm đến sự phát triển của đất nước.

***

Đức Tâm : Kính chào giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn. Cách nay 5 năm, khi trả lời phỏng vấn RFI nhân 20 năm ngày xẩy ra vụ nổ lò hạt nhân Tchernobyl, giáo sư đã cảnh báo về những nguy cơ, hậu quả thảm khốc của điện nguyên tử. Những gì đang xẩy ra tại nhà máy điện Fukushima, Nhật Bản cho thấy dường như người ta chưa rút ra những bài học về Tchernobyl. Trước hết, giáo sư đánh giá thế nào về mức độ nghiêm trọng của các sự cố tại Fukushima?

Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn: Theo tôi biến cố Fukushima không thua gì Tchernobyl. Trong những ngày đầu, Cơ quan An toàn Hạt nhân Nhật Bản xếp mức nguy hiểm vào hàng số 4, trên thang do INES (International Nuclear Event Scale). Sau vài ngày, họ cho lên số 5, bằng mức của Three Mile Island, trong lúc đó Cơ quan An toàn Pháp xếp vào mức số 6, sau Tchernobyl số 7, mức đo cao nhất. Việc sắp xếp này có tính cách tương đối vì nó còn tùy thuộc ở những tiêu chuẩn đưa ra. Vì diện tích eo hẹp của Nhật Bản gây ra thiệt hại to lớn, rồi đây Fukushima có thể đựợc xếp ngang hàng với Tchernobyl.

Khác với lò nước sôi BWR (Boiled Water Reactor) của Fukushima và lò áp suất PWR (Pressurized Water Reactor) của Three Mile Island, lò số 4 RBMK (1000 MW) ở Tchernobyl không có vỏ bọc bêtông cốt thép để ngăn chặn bụi phóng xạ thoát ra ngoài. Biến cố Tchernobyl xẩy ra vì nhân viên không áp dụng qui tắc căn bản, đã cố ý hay vô tình, tách rời hệ thống làm lạnh cùng với một số hiệu báo động trong một thí nghiệm điện thông thường.

Sáng ngày 26-4-1986 ở nhà máy điện hạt nhân Tchernobyl, hai tiếng nổ kinh hồn (một vì hiện tượng hạt nhân, một vì khí hydro) đã làm tung bay 2000 tấn bêtông của nắp đậy. Tâm lò với 192 tấn nhiên liệu bị nóng chảy làm phóng xạ thoát ra ngoài một cách nhanh chóng. Trong suốt 10 ngày, hàng trăm tấn graphite (chất điều độ – modérateur) bị thiêu hủy, tiếp tục thải phóng xạ lên không gian.

Ngày 11-3-2011, ở Fukushima, hệ thống làm lạnh bị tê liệt vì sóng thần – Tsunami, nên những ngày kế tiếp, có nhiều vụ nổ hydro ở các lò. Ở đây, chất điều độ là nước, không có phản ứng như graphite. Tiềm năng phóng xạ của Fukushima rất lớn, vì tổng công suất 6 lò của Fukushima là 4680 MW, gần 5 lần lớn hơn Tchernobyl. Những chuyên gia và nhân viên khai thác nhà máy điện hạt nhân nào trên thế giới cũng sợ nhất tình huống tâm lò bị nóng chảy và vỏ bọc lò bị nứt rạn, làm phóng xạ bay ra ngoài.

Tình hình biến chuyển nhanh chóng ở Fukushima có thể tạm tóm tắt như sau : 3 tâm lò bị nóng chảy (lò 1 -70%, lò 2 – 33%), 2 hỏa hoạn ở hồ chứa nhiên liệu, 5 vụ nổ hydro. Trong 5 lò, các thanh nhiên liệu đã sử dụng tiếp xúc trực tiếp với khí quyển. Số nhiên liệu tích trữ ở trong các hồ nước đang sôi bằng 4 lần số nhiên liệu trong các thùng lò. Ngày 26-3, tình hình có vẻ trầm trọng hơn vì ở lò 3, khối macma nhiên liệu và kim lọai nóng chảy (corium 2200°C – 2500°C ) có thể làm thủng lò và kết cấu đáy (radier) bêtông, dày khoảng 8m ! Lúc ấy, các chất phóng xạ strontium, uranium và plutonium sẽ xuất hiện và có thể lan ra biển. Số lượng phóng xạ vô cùng nguy hiểm sẽ thải ra như ở Tchernobyl.

Nên biết rằng trong số 514 bộ phận lắp ráp nhiên liêu (assemblages) của lò 3 này, có 32 bộ MOX do Aréva của Pháp vừa mới cung cấp. Dù các lò khác không có nhiên liệu MOX, phản ứng phân hạch cũng tạo ra một ít plutonium. Mỗi lò PWR (1000 MW) của Pháp có khả năng sản xuất mỗi năm 200 kg tương đương Plutonium (Pu). Trước biến cố, chỉ tâm lò số 4 là không có nhiên liệu, vì đã đưa vào hồ nước.

Đức Tâm: Thưa giáo sư, những khó khăn trong việc khắc phục các sự cố ở Fukushima là gì?

Nguyễn Khắc Nhẫn: Ở Tchernobyl, tuy khó vì phóng xạ quá mạnh, nhưng chỉ tâp trung ở một lò số 4. Ngay sau khi xẩy ra biến cố, nhiều đội trực thăng liên tục thả xuống khu lò biết bao nhiêu là tấn cát, chì, đất sét, bore… với mục đích dập tắt hoả hoạn và ngăn chặn bụi hạt nhân phát tán. Từ 600 000 đến gần 1 triệu dân được chính quyền huy động đến tiếp cứu. Vì nhiễm phóng xạ quá mạnh, những anh hùng vô danh này (liquidateurs) phần lớn đã tử nạn hay lâm bệnh tật suốt đời.

Ngược lại ở Fukushima, phóng xạ nhẹ hơn, nhưng phải tổ chức cấp tốc, tiếp cứu cùng một lúc 6 lò. Hết nổ ở lò này thì cháy ở lò kia, xem như thi đua. Vì ở cạnh bờ biển nên TEPCO dùng trực thăng để đổ nước mặn xuống các lò và hồ chứa nhiên liêu đã sử dụng để làm lạnh tâm lò, mặc dù không thể nào ngăn hơi nước nhiễm phóng xạ bay lên khí quyển.

Đến nay, hơn 2 tuần lễ, nhưng TEPCO vẫn chưa kiểm soát được tình hình ở nhà máy, còn hết sức nguy hiểm. Các chuyên gia vẫn hồi hộp lo sợ vì không thể nào tiên đoán được những tình huống có thể xẩy ra. Tình trạng bi đát này có thể kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Tuy đem điện vào được, nhưng hệ thống làm lạnh vẫn chưa có thể phục hồi vì máy móc, dụng cụ đo lường đều hư hỏng nặng.

TEPCO đang sợ tâm lò số 3 bị nóng chảy hoàn toàn. Nếu thùng lò và vỏ bọc lò bị nứt thì phóng xạ từ nhiên liệu MOX (có Plutonium) hết sức độc, sẽ lan tràn ra ngoài như ở Tchernobyl. Muốn ngăn chặn bụi hạt nhân phát tán thì phải xây hàng lọat nhiều quan tài (Sarcophage) hay sao ? Sarcophage đầu tiên của Tchernobyl bị nứt nhiều nơi, nên người ta đang xây một Sarcophage thứ hai, trị giá 1 tỷ đôla, có hiệu lực chỉ 100 năm thôi ! Lò 1 của nhà máy Fukushima, vận hành từ 40 năm nay, đúng lý được nghỉ hưu, nhưng éo le thay, vừa mới được phép gia hạn 10 năm nữa từ tháng trước. Chính phủ Nhật đã tuyên bố sẽ đóng cửa nhà máy này. Dù sao với sự tàn phá vừa qua và một khi hàng chục tấn nước biển đã tưới vào, TEPCO biết là thế nào cũng phải hy sinh nhà máy Fukushima.

Liều phóng xạ trên con số 500 – 1000 mSv/ h (1) đã đo đựợc ở đây (trong một năm, nếu hấp thụ quá 100 mSv, có xác suất bị ung thư). Đặc biệt, phóng xạ Iode ở bờ biển cũng tăng rất cao. Nhà chức trách đang tiếp tục công tác khử nhiễm, ban bố lệnh cấm sử dụng và buôn bán thực phẩm được sản xuất ở khu vực này.

Ngày 27/03, TEPCO bắt đầu tưới nước thường vào hai lò 1 và 3 vì với nước biển, muối có phản ứng, ứ đọng ở các ống, gây cản trở cho việc làm lạnh nhiên liệu. Tuy nhiên, họ bắt buộc tiếp tục đổ nước biển vào các hồ. Nhiều vũng nước ở lò 2 có phóng xạ lên rất cao đến 10 triệu lần lớn hơn mức thường. (TEPCO vừa cho biết là con số này không được chính xác) ? Cách nhà máy Fukushima 40 km, người ta đã đo thấy Césium 137 lên đến 3.260.000 Bq/m2 (1)

Đức Tâm: Sau sự cố ở Fukushima, tại một số nước phát triển như Pháp, Đức, đã có một cuộc tranh luận quyết liệt về việc có nên phát triển điện hạt nhân hay không. Thực ra, sau mỗi tai nạn hạt nhân thì lại có những cuộc tranh luận như vậy, nhưng cuối cùng phe ủng hộ điện hạt nhân vẫn thắng thế. Giáo sư có nghĩ rằng lần này, sau Fukushima, mọi việc sẽ khác đi hay không ?

Nguyễn Khắc Nhẫn: Câu hỏi này rất hợp thời sự. Sau Tchernobyl, dư luận toàn cầu không sôi động, lo sợ như lần này. Thảm họa Fukushima, như một Tsunami, đang ồ ạt lay chuyển công nghiệp hạt nhân thế giới. Những đoàn thể chống điên hạt nhân đang lên tiếng dữ dội, đặc biệt ở Đức. Nhiều nước như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Anh, Pháp… đã ra lệnh phải kiểm soát chặt chẽ và củng cố tất cả các nhà máy điện hạt nhân để đối phó với mọi rủi ro tai nạn. Các nước như Vénézuéla, Thụy Sĩ, Israel đang do dự hay cho hoãn lại các dự án. Trung Quốc cũng ngưng cấp giấy phép làm những nhà máy điện hạt nhân mới.

Cộng đồng Âu Châu (có143 lò rải rác trên 14 nước) đang muốn thống nhất các tiêu chuẩn an toàn và sẽ quyết tâm đóng cửa những nhà máy thiếu an toàn. Nước Đức, với 17 lò (22% điện hạt nhân), năm 2003, đã tuyên bố đóng cửa các nhà máy vào năm 2020. Gần đây, vì sợ thiếu điện, đã cho gia hạn đến 2032. Phản ứng của bà Angela Merken, một giáo sư vật lý, hết sức nhạy bén. Bà đã quyết định đóng cửa tạm thời 7 nhà máy điện hạt nhân của Đức xây cất trước 1981, đình chỉ trong vòng 3 tháng việc cho gia hạn thời gian vận hành nhiều nhà máy khác và dần dần sẽ từ bỏ hẳn điện hạt nhân. Hàng trăm ngàn người đã tiếp tục biểu tình ở Đức để phản đối điện hạt nhân.

Pháp với 58 lò rải rác trong 19 nhà máy, có tỷ lệ điện hạt nhân 78%, cao nhất thế giới. Tổng thống Pháp vừa tuyên bố sẽ đóng cửa tất cả những lò nào không tôn trọng những trắc nghiệm (stress test) của Cộng đồng Âu châu. Đảng Xanh đã lên tiếng đề nghị chính phủ trưng cầu dân ý và đóng cửa ngay các nhà máy cũ hay ở vùng dễ bị động đất như Fessenheim (2 x 900 MW) và Tricastin (4 x 900 MW ). Chính phủ đặt tin tưởng vào lò thế hệ ba EPR-1600 MW (European Pressurized Reactor) đang xây cất ở Flamanville. Lò này cũng đang được xây cất ở Phần Lan nhưng bị trễ 3 năm trời.

Cũng như ở Đức và nhiều nuớc khác, Pháp sẽ phải thay đổi chiến lược dài hạn về năng lượng và dần dần hạ thấp tỷ lệ điện hạt nhân. Nhiều chuyên gia chống điện hạt nhân đã tuyên bố rằng Pháp có thể bỏ điện hạt nhân trong vòng 30 năm tới, bằng cách tiết kiệm và tăng hiệu suất năng lượng (-50%), đồng thời triệt để sử dụng năng lượng tái tạo (+ 80%) và khí (+ 20% ).

Fukushima sẽ làm tăng rất nhanh giá thành điện hạt nhân, vì từ nay các công ty phải ồ ạt đầu tư vào khâu an toàn. Thời gian đợi cấp giấy phép và xây cất nhà máy sẽ kéo dài hàng tháng, hàng năm. Năng lượng tái tạo sẽ có cơ hội và điều kiện cạnh tranh. Fukushima cũng sẽ chặn đứng việc gia hạn vô trách nhiệm thời gian vận hành của nhiều nhà máy đến tuổi hưu trí (sau 30 hay 40 năm khai thác). Sở dĩ các công ty muốn gia hạn đến 50 hay 60 năm là vì đã khấu hao và cũng vì tìm cho ra địa điểm mới để xây cất nhà máy điện hạt nhân là hết sức khó khăn, trừ ở những nước thiếu dân chủ. Có ai muốn đi xe cũ đã 15-20 năm, mặc dù xe đã được kiểm tra lại và đổi mới. Nhưng máy xe vẫn cũ, cũng như thùng và vỏ bọc lò thì ai giám tin cậy ? Ngày xưa, làm bài toán kinh tế về giá thành kWh cho EDF, tôi lấy giả thuyết thời gian vận hành là 20 năm thôi, chứ đâu phải 30 hay 40 năm.

Tóm lại, có thể tuyên bố rằng Fukushima sẽ đổi mới hoàn toàn công nghiệp hạt nhân, nếu chưa đủ sức chặn đứng sự bành trướng hay làm sụp đổ nó.

Đức Tâm: Sự cố Fukushima buộc một số quốc gia châu Âu và châu Á xem xét lại kế hoạch phát triển điện hạt nhân. Trong khi đó, chính phủ Việt Nam vẫn chủ trương xây dựng các nhà máy điện hạt nhân và trấn an rằng các nhà máy được xây dựng tại Việt Nam sẽ an toàn hơn và chính phủ coi vấn đề an toàn là ưu tiên hàng đầu…Trong khi đó, một số chuyên gia Việt Nam gợi ý chỉ nên xây một hoặc hai lò rồi rút kinh nghiệm có nên làm tiếp hay không. Ý kiến của giáo sư về việc này ?

Nguyễn Khắc Nhẫn: Cũng như ở nhiều nước trên thế giới, các nước châu Á, như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, kể cả Nhật Bản, đều đang cấp tốc kiểm tra toàn bộ các nhà máy điện hạt nhân, đồng thời xét duyệt lại chiến lược phát triển năng lượng. Thảm họa Fukushima đang diễn biến có thể xem như một Tsunami rất hùng mạnh, đang ồ ạt lay chuyển công nghiệp hạt nhân thế giới. Fukushima sẽ làm cho các nhà lãnh đạo và chuyên gia khoa học khiêm tốn và dè dặt hơn xưa. Việt Nam không thể coi thường hậu quả tai biến này và tiếp tục xúc tiến chương trình xây cất một loạt 8 lò từ năm 2014 đến 2031.

Lẽ cố nhiên, những lò thế hệ 3 như EPR, AP1000, hết sức đắt tiền, an toàn hơn lò thế hệ 2. Tuy nhiên, bất cứ lò thế hệ 3 nào cũng chỉ là một kiểu lò tiến hóa (évolutionnaire) vừa dựa trên kinh nghiệm quý báu của lò thế hệ 2, vừa được bổ sung với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, chứ không có gì cách mạng cả. Cũng như nhiều chuyên gia khác, cá nhân tôi không tin tưởng vào lò thế hệ 4 tương lai, đừng nói đến lò thế hệ 3 mà chúng tôi xem như đã lỗi thời. Các lobby và các công ty vụ lợi, sẽ tiếp tục ru ngủ nước ta với hai chữ an toàn. An tòan chỉ tương đối mà thôi. Chuyên gia Nhật Bản lỗi lạc hàng đầu, giàu kinh nghiệm, có sự hỗ trợ cả một nền công nhiệp robot đồ sộ, thế mà trong hơn hai tuần nay, đành bó tay, bất lực, đau lòng chứng kiến thảm cảnh điêu tàn.

Nhà kinh tế Pháp, Jacques Attali, đã đưa ra ý kiến là nên yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp, giúp mạnh Nhật Bản phục hồi tình trạng bi đát của Fukushima vì điện hạt nhân liên hệ đến toàn cầu chứ không riêng gì cho một nước nào. Trong cuốn sách Economie de l’Apocalypse- Trafic et Prolifération nucléaire, xuất bản năm 1994, Jacques Attali đã đề nghị Liên Hiệp Quốc không nên để các nước thiếu điều kiện xây cất lò hạt nhân. Thủ tướng Pháp cũng đã tuyên bố sẽ không bán cho những nước này lò hạt nhân. Nhưng trước khi xẩy ra thảm họa Fukushima, tổng thống Pháp đi đâu cũng quáng cáo và muốn bán lò EPR của Aréva.

Một chuyên gia hàng đầu về lò hạt nhân của Mỹ, giáo Sư Arnold Gundersen, đã tuyên bố rằng hiện nay không nên xây cất thêm một nhà máy điện hạt nhân nào khác trên thế giới, cần phải đợi cho đến lúc các chính phủ lượng định lại mức độ nguy hiểm tối đa như thế nào. Lẽ cố nhiên, tôi ủng hộ lập trường này.

Fukushima đã thức tỉnh dư luận. Bây giờ người ta bắt đầu mở mắt, thấy rõ hư thực. Công nghiệp hạt nhân là một công nghiệp đồ sộ, giàu mạnh, nhưng mỏng manh nhất thế giới. Vì để đồng đôla cao hơn tính mạng con người và môi trường, nên các công ty, các lobby phải dối trá với cấp lãnh đạo và dân chúng, thường xuyên che dấu sự thật.

Đừng quên rằng lửa hạt nhân, lúc sơ khởi là để tàn phá chứ không phải để kiến thíết xây dựng. Vào con đường hạt nhân bây giờ, theo ý tôi, là phản tiến bộ, đi lùi, chứ không phải đi tới, như có người vẫn mơ tưởng hão huyền. Tạo hóa đã cho nhân loại tha hồ sử dụng năng lượng tái tạo, không tốn một xu nhiên liệu nào, thế mà tại sao cứ tiếp tục chạy theo con đường đầy chông gai hiểm trở, vô cùng tốn kém? Nếu cả thế giới triệt để tiết kiệm năng lượng, nguồn năng lượng vô cùng quý báu này có thể tương đương với 50% nhu cầu nhân loại hiện nay. Ít ai tưởng tượng rằng lãng phí toàn cầu có thể lên đến 50%.

Trong số 20 bài tôi viết (2) từ năm 2003, với tất cả nhiệt tình dành cho quê hương, tôi đã nhiều lần nhấn mạnh rằng Việt Nam không nên xây cất nhà máy điện hạt nhân vì nhiều lý do : An toàn, chuyên gia, nhân lực, kinh tế, tài chính, môi trường, rủi ro nguy hiểm, lưu trữ chất thải phóng xạ…

Chính sách năng lượng của nước ta, cũng như của tất cả các nước trên thế giới, phải dựa trên việc triệt để tiết kiệm, sử dụng có hiệu lực năng lượng, khai thác tất cả các nguồn năng lượng tái tạo. Tổn thất năng lượng ở Việt Nam hiện nay có thể lên đến 35-40%. Mỗi chúng ta phải thay đổi cách nhìn và cách sống. Điều độ chừng nào quý chừng ấy. Theo tôi, không có con đường nào khác. Tại sao người ta đi ra mình lại đi vào? Chưa có nhà máy điện hạt nhân là may mắn lắm, tại sao tìm đón rủi ro tai biến. Làm một lò điện hạt nhân là kẹt cả một thế kỉ (50 năm vận hành và 50 năm để tháo gỡ). Các nhà máy điện hạt nhân có phải là mục tiêu lý tưởng cho quân địch khi chiến tranh xẩy ra không ?

Ngày 25-3 vừa qua, trận động đất 6,8° Richter khá lớn ở Miến Điện (Myanmar) như cố tình nhắc đồng bào Hà Nội là tạo hóa vẫn vô thường. Như tôi đã có dịp trình bày trong bài phỏng vấn của RFI về công trình thủy điện Sơn La, các nhà máy điện hạt nhân tương lai ở Ninh Thuận cũng nằm trong vùng có thể bị động đất lớn. Những vệ tinh đã phát hiện vết nứt (faille) sông Hồng dài 1000 km từ Tây Tạng đến khu miền bắc và về phía nam, dọc theo bờ biển nước ta. Vết nứt tuốt (coulissant) theo đường rãnh, trung bình 1 cm mỗi năm, có thể làm xê dịch từng cơn : sông, thung lũng, bãi phù sa… mỗi khi có động đất đáng kể. Đất nước ta eo hẹp, nhất là ở mìền trung, nếu có biến cố xẩy ra, đồng bào ta sẽ phải làm nhà, hụp lặn, ở dưới biển hay sao?

Về khâu xử lý chất thải phóng xạ, hết sức nguy hiểm và đắt tiền, có cơ quan trách nhiệm bên nhà đã tuyên bố rằng sẽ không có vấn đề gì vì ta sẽ giao trọn cho công ty ngoại quốc bán lò đem chất thải về nước họ để giải quyết lấy. Đâu phải dễ như thế. Thảm họa Fukushima diễn ra trong lúc những thanh nhiên liệu còn ở trong các tâm lò hay trong các hồ chứa nước, xử lý chất thải phóng xạ là ở giai đọan sau. Ở nước ta, việc xử lý chất thải gia dụng hàng ngày, chồng chất ngoài đường cũng đã là một vấn đề nan giải. Tội gì mà phải rước thêm chất thải phóng xạ vô cùng nguy hiểm, lưu trữ ngàn năm cho con cháu.

Điện hạt nhân không đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Trái lại, đi vào con đường bế tắc này, vì kinh tài và nhân lực sẽ bị thu hút mạnh, chúng ta sẽ cứ tiếp tục chậm tiến.

Đứng về phương diện tài chánh, tôi đã nhiều lần khẳng định rằng giá thành kWh điện hạt nhân ở Việt Nam sẽ không thể nào kinh tế được, vì những lý do dễ hiểu : Thiếu chuyên viên, trình độ nhân viên khai thác, phương pháp quản trị, tinh thần kỷ luật, thời gian xây cất, vận hành và bảo trì, tháo gỡ, tham nhũng, lệ thuộc ngoại quốc, không có hậu thuẫn kỹ thuật và công nghệ…

Tai biến Three Mile Island, Tcherrnobyl không vì rủi ro mà vì thiết kế không hoàn bị và nhất là vì nhân viên thiếu trình độ hay kinh nghiệm. Chủ yếu vẫn là ở con người. Với nhân lực và ngân sách eo hẹp của nước ta, tại sao lại cả gan xung phong vào một lĩnh vực bế tắc này. Kinh phí khổng lồ, 30 tỷ đôla này, để dành cho năng lượng tái tạo và các lĩnh vực ưu tiên khác như giáo dục, nghiên cứu, y tế , xã hội có ích lợi hơn cho đồng bào không ?

Tôi xin mạn phép nhắc lại : Làm điện hạt nhân là khiêu khích tạo hóa. Đến năm 2030, thì năng lượng tái tạo đã trưởng thành và kinh tế từ lâu. Điện hạt nhân không phải là lời giải cho bài toán năng lượng và hòa bình của nhân loại và đặc biệt cho các nước như nước ta. Các giới có thế lực tiếp tục lợi dụng hiện tượng thay đổi khí hậu để đề cao vai trò điện hạt nhân. Tuy nhiên, đổi CO2 với chất thải hạt nhân, thì chẳng khác nào như đổi SIDA với dịch tả.

Một chuyên gia Mỹ về dự báo, có uy tín trên thế giới, Ray Kurzweil, đã tiên đoán rằng nhân loại, nếu muốn, chỉ trong vòng 20 năm tới, có thể sử dụng 100% năng lượng mặt trời. Đó là chưa nói đến điện gió, đang bành truớng rất nhanh, mà nước Đức dẫn đầu từ bao nhiêu năm nay. Còn rất nhiều nguồn năng lượng tái tạo khác cũng cần đựợc nghiên cứu và khai thác mạnh.

Cũng như Tchernobyl, Fukushima đang cảnh cáo nhân lọai. Tiếng nổ long trời lở đất và sóng thần khủng khiếp ở xứ hoa đào xấu số này, rồi đây sẽ chặn đứng sự bành trướng của công nghiệp điện hạt nhân trên thế giới. Tôi hy vọng rằng nó sẽ làm lay chuyển lương tâm của những nhà khoa học hay chính trị gia, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với nhân loại nói chung và đối với dân với nước họ nói riêng.

Chúng ta nên nghiêng mình tưởng niệm và cám ơn những nạn nhân Nhật Bản đã hy sinh tính mạnh trong thảm họa này. Họ đã để lại cho nhân loại một bài học cay đắng nhưng vô cùng quý báu.

Vì sự sống còn của dân tộc, của những thế hệ con cháu sau này, tôi thiết tha đề nghị chính phủ Việt Nam rút lui có trật tự, cương quyết hủy bỏ chương trình điện hạt nhân ngay từ bây giờ, đúng thời, hợp lý, để tránh thảm họa cho đất nước. Các cơ quan trách nhiệm nên nghĩ đến sự an toàn của hàng chục, hàng trăm thế hệ con cháu, thay vì chạy theo những thế hệ lò 3, lò 4, không an toàn chút nào.

(Nguyễn Khắc Nhẫn, nguyên Cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris, nguyên GS Viện kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble và Trường Đại học Bách khoa Grenoble)

Đức Tâm

(1) Becquerel (Bq): tác động phóng xạ đo bằng Becquerel (số hạt nhân phóng xạ tự phân hủy (désintégration) trong mỗi giây là 1 Curie)

1 Ci (Curie) = 37.109 Bq

Sievert (Sv): liều tương đương phóng xạ dùng để đo tác động sinh vật trên cơ thể. Đó là một đơn vị đề phòng phóng xạ

1 Sv (Sievert) = 100 rem (Tchernobyl: 800-1600 rems)
1 Sv =1000mSv) (chiếu phổi: 0.1 rem)

(2) www.vietsciences, caodangdienhoc, ugvf, tailieu.tapchithoidai, diendan.org

Thiên tai ở Nhật và nguy cơ phát tán phóng xạ của các nhà máy điện hạt nhân

Trận động đất 8.8 độ Richter kéo theo sóng thần tan phá nhiêu thành phố ở Nhật. March 11, 2011

Thảm họa động đất và sóng thần tại Nhật Bản từ hồi thứ sáu tuần qua cũng dẫn đến sự cố tại nhà máy điện nguyên tử Fukushima của Nhật.

Những quan ngại về một thảm hoạ rò rĩ phóng xạ cho Xứ Phù Tang, nơi từng phải gánh chịu hai quả bom nguyên tử hồi năm 1945, dấy lên một làn sóng chỉ trích từ phiá chống xây dựng những nhà máy điện hạt nhân.

Nhân các diễn biến vừa nói, trong chuyên mục Khoa học- Môi trường kỳ này, Gia Minh hỏi chuyện một chuyên gia làm việc lâu năm trong lĩnh vực nguyên tử và môi trường tại Hoa Kỳ, ông Phùng Liên Đoàn, về tình hình liên quan. Trước hết ông cho biết:

Biện pháp phòng ngừa thảm họa phát tán phóng xạ

Ông Phùng Liên Đoàn: Trước hết tôi muốn nói nhà máy Fukushima đã cũ rồi, và ở đó chỉ có một nhà máy với bốn lò phản ứng hạt nhân. Hiện có hai lò phản ứng có vấn đề, và thông tin tôi nghe được nói đã cho sơ tán người dân sống quanh đó.
Trận động đất, và sóng thần sau đó khiến cho hệ thống an toàn của nhà máy bị hư hại, không thể bơm nước vào tâm lò.

Nhà máy sẽ tự động ngưng hoạt động khi có động đất. Tuy vậy khi lò ngưng hoạt động, nhưng tại tâm lò nơi nguyên tử hoạt động vẫn còn rất nóng, những thanh nhiên liệu vẫn còn nóng, có thể nóng hơn 6% so với bình thường.

Nhà máy sẽ tự động ngưng hoạt động khi có động đất. Tuy vậy khi lò ngưng hoạt động, nhưng tại tâm lò nơi nguyên tử

Hình chụp nhà máy điện hạt nhân tại Fukushima
Hình chụp nhà máy điện hạt nhân tại Fukushima bị hư hại vì trận động đất hôm 12/03/2011. AFP

hoạt động vẫn còn rất nóng, những thanh nhiên liệu vẫn còn nóng, có thể nóng hơn 6% so với bình thường. Vì thế cần có nước luôn chảy trong tâm lò, thì những thanh nhiên liệu đó mới có thể nguội đi được. Khi xảy ra động đất làm cho những máy ‘cấp cứu’ bơm nước vào tâm lò bị hư haị, trong lò chỉ còn nước ở các bình sôi trong đó mà thôi.
Như vậy có thể mất nước đi, và một vài thanh nhiên liệu bị thiếu nước. Những chỗ thiếu nước như thế có thể bị nóng chảy ra, và hiện tượng nhiều chất phóng xạ có thể thoát ra ngoài.
Gia Minh: Khi xây dựng một nhà máy điện nguyên tử, người ta có thể hình dung ra trước những khả năng đó?
Ông Phùng Liên Đoàn: Chắc chắn như thế rồi, khi xây dựng nhà máy điện nguyên tử đều có tiến đoán trước hết những tình huống như thế. Bởi vậy có nhiều thiết bị an toàn…có những bình điện sẵn để các máy cấp cứu bơm nước. Thế nhưng khi đường dây bơm nước hay máy cấp cứu bị hư hại bởi một trận động đất ghê gớm như thể, có thể có trường hợp không thể bơm nước vào tâm lò được.

có nhiều thiết bị an toàn…có những bình điện sẵn để các máy cấp cứu bơm nước. Thế nhưng khi đường dây bơm nước hay máy cấp cứu bị hư hại bởi một trận động đất ghê gớm như thể, có thể có trường hợp không thể bơm nước vào tâm lò được.

Tuy nhiên, đối với nhà máy Fukushima, người ta đã thiết kế xây dựng có thể chống chọi được với động đất đến 9 độ Richter.  Do đó, chúng tôi không lo ngại có những tai nạn xảy ra nhiều hơn.
Gia Minh: Như ông nói có dự kiến, nhưng này sự việc xảy ra dường như vượt khỏi khả năng kiểm soát?
Ông Phùng Liên Đoàn: Không vượt khả năng kiểm soát đâu. Vì khi dự đoán, ngươì ta đã có những bộ phận an toàn, và sự chống chọi của con ngươì nữa. Tôi còn nghe nói người ta bơm nước biển vào trong một lò. Hoa Kỳ cũng mang thêm nước đặc biệt đến những lò còn lại. Theo tôi, tất cả đều trong dự đóan chứ không phải ngoài dự đoán.
Gia Minh: Mức phóng xạ thoát ra ngoài được nói cao gấp nhiều lần mức cho phép; theo thì vấn đề ra sao và tác hại sau này thế nào?
Ông Phùng Liên Đoàn: Thực sự phóng xạ thoát ra cao hơn mức bình thường; tuy nhiên so sánh với những thiệt hại do động đất và sóng thần vừa qua có thể ví như con kiến với cái nhà vậy. Cần hiểu rằng nguy hiểm do phóng xạ thoát ra hiện nay tại đó là rất nhỏ, vô cùng nhỏ.

AFP
Bản đồ khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của trận động đất ở Nhật hôm 11-3-2011. AFP

Vấn đề còn có xảy ra nữa hay không? Đó là điều người ta đang lo. Nếu tâm lò không được nước làm nguội đi, dần dần sẽ nóng chảy. Khi nóng chảy tất cả sẽ phát ra phóng xạ rất lớn.

Vấn đề còn có xảy ra nữa hay không? Đó là điều người ta đang lo. Nếu tâm lò không được nước làm nguội đi, dần dần sẽ nóng chảy. Khi nóng chảy tất cả sẽ phát ra phóng xạ rất lớn. Vì thế, công việc quan trọng nhất bây giờ là phải tiếp tục cho nước vào tâm lò.
Việc đưa nước biển vào tâm lò là biện pháp cuối cùng, vì khi cho nước biển vào tâm lò như thế, lò đó phải bỏ đi không sử dụng được nữa. Lò đáng giá 1 tỷ đô la hoàn toàn bỏ đi. Khi cho nước biển vào, tất cả những chất sắt làm bao cho nhiên liệu, bình chứa tâm lò bị hỏng không dùng được nữa. Tại lò này tôi bảo đảm không lo gì nữa về phóng xạ.
Quan ngại là những lò đang được đưa nước lọc tinh khiết 100% vào tâm lò.  Sử dụng loại nước này để làm nguội các thanh nhiên liệu, sau một hai tháng, hay một hai năm lò có thể sử dụng lại được.

Lợi và hại của các nhà máy điện nguyên tử

Gia Minh: Đánh giá giữa lợi hại ra sao?
Ông Phùng Liên Đoàn: Nếu nhà máy Fukushima là nhà máy mới trị giá 4-5 tỷ đô la, đó là một thiệt hại ghê gớm; tuy nhiên đây là một nhà máy cũ hoạt động 40 năm rồi. Khi xây dựng nhà máy như thế, ngươì ta tính sau 30 năm có thể hoàn toàn thu lại vốn.

Nếu nhà máy Fukushima là nhà máy mới trị giá 4-5 tỷ đô la, đó là một thiệt hại ghê gớm; tuy nhiên đây là một nhà máy cũ hoạt động 40 năm rồi. Khi xây dựng nhà máy như thế, ngươì ta tính sau 30 năm có thể hoàn toàn thu lại vốn.

Suốt những năm qua nhà máy đã mang lại lợi ích cho các công ty và dân Nhật rồi. Nếu không có động đất chỉ vài năm nữa, nhà máy đó phải thay đổi, sẽ có những nhà máy mới khác ra đời hoạt động. Ví dụ như cái nhà đã xây 40 năm rồi, do bão gây thiệt haị thì không bằng một nhà máy mới.
Gia Minh: Qua sự cố nhà máy điện nguyên tử Fukushima, người ta liên hệ đến những nhà máy điện nguyên tử của các nước khác đang tiến hành xây dựng, nhất là nhà máy nằm trong khu vực nguy cơ động đất ảnh hưởng, như ở Việt Nam; ông thấy Việt Nam cần làm gì về mặt an toàn cho nhà máy?
Ông Phùng Liên Đoàn: Những nhà máy nguyên tử hiện đại luôn có an toàn ngày càng tốt hơn. Nhà máy Fukushima xây dựng cách đây 40 năm, dù đang có những cảnh báo về an toàn, nhưng so với những mối nguy khác thì nguy cơ của nhà máy này vẫn quá nhỏ. Ví dụ, một con người ở đó có bị phóng xạ, so với những ngươì bị trôi, bị cháy thì vẫn nhỏ bé thôi. Khi xây nhà máy mới, ngươì ta có những biện pháp an toàn, biện pháp cuối cùng để không thể xảy ra những tai nạn như Chernobyl tại Nga hồi năm 1986.

Những đám cháy đang lan rộng ở thành phố Natori
Những đám cháy đang lan rộng ở thành phố Natori, tỉnh Miyagi . AFP

Đối với Việt Nam, vấn đề luôn là con người. Vì Việt Nam chưa có truyền thống có thể ‘bảo trì’ công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, Việt Nam cần có con ngươì được huấn luyện.

Gia Minh: Vậy đề nghị của ông đối với Việt Nam thế nào?
Ông Phùng Liên Đoàn: Cần phải có đội ngũ chuyên gia đuợc huấn luyện thật tốt. Việt Nam cần phải mua nhà máy của nước ngoài.
Đối với Việt Nam, vấn đề luôn là con người. Vì Việt Nam chưa có truyền thống có thể ‘bảo trì’ công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, Việt Nam cần có con ngươì được huấn luyện. Mà không riêng ngành điện nguyên tử, mà trong các ngành khác nữa như xe hơi, đường sắt…
Họ cũng phải được rèn luyện tư cách, và suy nghĩ cách làm việc sao cho an toàn. Đó là điều quan trọng nhất.
Gia Minh: Cám ơn Ông.

Theo dòng thời sự:

Ts. Phùng Liên Đoàn nói về Fukushima

Ts. Phùng Liên Đoàn. Ảnh: VOA

Để hiểu thêm về tai họa nhà máy điện hạt nhân của Nhật Bản sau động đất và sóng thần, Blog HM xin đăng lại bài phỏng vấn Ts. Phùng Liên Đoàn đăng trên VOA (Voice of America). VN ta muốn xây dựng điện hạt nhân thì cần ít nhất vài tiểu đoàn cỡ “Ts. Phùng Liên Đoàn”.

Làm thế nào mời các trí thức này về giúp cho điện hạt nhân Ninh Thuận lại nằm ngoài tầm phủ sóng của blog Cua Times.

Cảm ơn VOA và Ts. Phùng Liên Đoàn. Blog HM.

** *

Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn ở tiểu bang Nevada là chuyên viên về nguyên tử tạo điện, tốt nghiệp từ trường MIT của Mỹ. Ông đã từng làm việc với các nhà máy điện hạt nhân giống như nhà máy Fukushima của Nhật. Theo ông tai nạn tại nhà máy Fukushima quá bất ngờ:

“90 hay 95% là có dự báo trước, nhưng có 5% là cái không thể ngờ được, nên mới có những biến chuyển ghê gớm như vậy.”

Theo ông, nhà máy lấy nhiệt từ nguyên tử ra bằng nước đun sôi, giống như nhà máy Fukushima, đã được thiết kế kỹ càng:

“Các thanh nhiên liệu được bảo vệ bằng ba bốn lớp an toàn khác nhau, lớp vỏ đầu làm bằng chất zirconium, sau đó lại có một lớp sắt không rỉ có bề dày 5 centimet và nặng từ 500 đến 1.000 tấn, sau đó lại có một dry well (giếng khô) tức là một cái nhà bằng xi măng cốt sắt dày một thước hai thước.

Khi nhìn vào ảnh của nhà máy điện hạt nhân Fukushima ta thấy ở dưới chân có một cái vòng tròn, giống như bánh donut, thì cái đó gọi là wet well (giếng ướt) trong đó người ta chứa nước.

Khi nào nhà máy bị bể, hay bình bị bể thì nước đun sôi có nhiều chất phóng xạ sẽ chui xuống dưới wet well, làm cho áp suất giảm đi. Khi áp suất giảm đi thì sẽ không có chuyện rò rỉ ra bên ngoài.

Tôi đã từng chui vào trong các wet well đó trong thời gian xây dựng nhà máy.
Bên ngoài wet well lại còn một cái nhà phụ (secondary building), đứng ngoài ta có thể nhìn thấy, giúp che mưa nắng, và giữ lại các chất phóng xạ bình thường, bởi vì khi làm việc thì luôn luôn phát ra chút xíu phóng xạ, thành ra nó được giữ ở trong cái nhà đó. Nhà này được giữ một áp suất thấp; tức là chỉ có không khí bên ngoài chui vào được, nhưng không khí bên trong không chui ra ngoài được.

Tuy nhiên, đó là trường hợp bình thường, khi có tai nạn lại là một chuyện khác. Khi có tai nạn thì nhà phụ này có thể sập, bay đi và nếu có chất rò rỉ ra bên ngoài thì chất này có thể ra thẳng ngoài không khí. Nhưng phần chính giữ cho phóng xạ khỏi ra ngoài là giếng khô, chứ không phải nhà đó.”

Khi thiết kế như vậy, người ta chỉ sợ những ống dẫn nước, mà đường bán kính có thể tới một mét, bị lung lay và vỡ ra. Khi vỡ ra thì tâm lò gặp nguy hiểm, các thanh nhiên liệu có thể không có nước làm lạnh, và nóng lên một cách nhanh chóng, trong vòng nửa tiếng, có thể từ lên từ 600 lên đến 3.000 độ F (1.500 độ C). Nếu vẫn chưa có nước, thì có thể lên 4.900 độ F (2.000 độ C). Ở nhiệt độ đó, ngay cả uranium cũng nóng chảy.

Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn nói rằng, nhà máy này chỉ chịu được trận động đất khoảng 8,2 độ Ritchter, khi gặp gần 9 độ như đã thấy thì quá mạnh.

Nhưng động đất quá mạnh đó vẫn chưa làm hỏng bất cứ phần nào cách thiết kế của các ống nước và các lớp bảo vệ an toàn. Điều nguy hiểm nhất mà người ta không lường trước được là hệ thống máy bơm nước:

“Người ta có hai loại máy, máy bơm nước ở áp suất cao để phun thẳng vào tâm lò; và loại áp suất thấp, giống như áp suất trong hồ bơi của mình. Họ không ngờ rằng các nguồn điện để chạy máy bơm không hoạt động.

Có 3 nguồn điện, một là từ bên ngoài dẫn vào từ các nhà máy điện ở xa dẫn vào, hai là các máy diesel, và ba là bộ pin gồm mấy trăm cái pin thật lớn, có chứa điện dẫn, để có thể làm việc được cho các máy móc nhỏ hơn.

Họ không thể ngờ các máy đó, vì có sóng thần nên không thể hoạt động được.
Nhưng tôi cũng nghĩ rằng cái đó không đúng đâu, bởi vì thường thường các máy móc của họ nằm trong nhà kín và ở độ cao, thì sóng thần có tràn vào cũng chưa có thể làm hỏng được các máy đó.

Tôi nghĩ các máy đó không hoạt động được, vì các ống dẫn nước lên không có. Lấy ví dụ một máy bơm lấy nước ở hồ bơi lên để chữa nhà cháy mà hồ bơi cạn thì anh không có nước để bơm lên. Tôi nghi ngờ có hiện tượng đó, hay sóng thần đã làm hư hại tất cả hệ thống cung cấp nước.”

Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn nói rằng muốn tránh tai nạn thì phải cố gắng bơm thật nhiều nước vào chỗ cần nước. Nhưng khổ một nỗi là chỗ cần nước lại che rất kín.

Ông cũng không rõ người Nhật tìm được cách nào nối ống nước để có thể bơm vào tâm lò, mặc dù nước biển vào sẽ làm hỏng hết lò, nhưng trong trường hợp nguy hiểm này phải chấp nhận thôi.

Ông tin rằng các chuyên viên của Nhật có đủ kỹ năng để giải quyết tai nạn này:

“Nhật Bản là nước rất văn minh, các kỹ sư được đào tạo rất bài bản, họ lại có một tinh thần khoa học kỹ thuật rất cao.”

Khi được hỏi liệu chất phóng xạ ở Nhật có thể bay đến Mỹ hoặc các nước châu Á hay không, ông cho biết:

“Trên nguyên tắc thì có nhưng rủi ro đó không đáng kể. Vấn đề phát tán các chất trong không khí là chuyện bình thường. Từ Nhật Bản qua Mỹ là một vòng địa cầu. Ngày xưa người ta thử bom nguyên tử trên mặt đất mà bụi phóng xạ của nó còn chưa giết được ai, huống chi vụ này chỉ có tính cách địa phương và chỉ ảnh hưởng trong vòng hai ba chục cây số mà thôi.

Ý kiến chuyên gia người Mỹ gốc Việt về dự án điện hạt nhân Ninh Thuận

Việt Nam đã quyết định xây hai nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận, giữa lúc có những lời ủng hộ và phản đối. Trong câu chuyện doanh nghiệp hôm nay, mời quý vị theo dõi các lời giải thích của một chuyên gia người Mỹ gốc Việt về dự án tiêu tốn 200 ngàn tỷ đồng, hoặc 11 tỷ 200 triệu đô la này.

Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn, 70 tuổi, tốt nghiệp ngành vật lý và nguyên tử tại trường đại học công nghệ Massachusetts Institute of Technology (MIT). Trước năm 1975, ông phục vụ tại Viện Nghiên Cứu Hạt Nhân Đà Lạt từ năm 1964 đến năm 1967. Hiện nay, ông là Tổng Giám Đốc công ty tư vấn Professional Analysis, Inc. (PAI) có văn phòng tại hai bang Tenessee và Nevada. Trong số khách hàng của công ty có Bộ Năng Lượng (DOE) và Cơ Quan Giám Định Luật Lệ Hạt Nhân (NRC) của Mỹ.

Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn đã tham gia thiết kế 4 nhà máy điện hạt nhân và viết hơn 100 khảo cứu và phúc trình về sự an toàn và giá thành của điện hạt nhân so với các nguồn tạo điện khác.

Ông Đoàn và gia đình đã dành nhiều tiền tiết kiệm và tiền nghỉ hưu để làm việc từ thiện ở Việt Nam.

Trong buổi trao đổi lần này, chúng tôi đã nhờ Tiến sĩ Đoàn giải thích một cách đơn giản những suy nghĩ của ông về dự án nhà máy điện hạt nhân trong tỉnh Ninh Thuận vừa được chính phủ Việt Nam quyết định tiến hành.

Dự án gồm 2 nhà máy, và nhà máy đầu tiên trong xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam sẽ được xây vào năm 2014, đưa tổ máy đầu tiên vận hành vào năm 2020.

Trước tiên, TS Đoàn cho rằng ông rất tiếc khi thấy chính phủ Việt Nam đã sử dụng những giả thiết rất thô sơ để đưa tới một chính sách có thể nói là rất quan trọng cho một quốc gia. Ông nói tiếp:

“Lý do thứ hai, điện hạt nhân rất đắt đỏ, đắt gấp ba bốn lần cách làm ra điện tại Việt Nam bây giờ. Phải đầu tư bằng một món tiền rất lớn, bằng cả ngân sách toàn thể quốc gia của Việt Nam. Vậy mà 10, 15 năm nữa chưa chắc đã có điện dùng. Chính vì lý do đó nên rủi ro rất cao, ta sẽ tiêu tốn rất nhiều tiền, không phải là 12 tỉ đô la giống như đã nói trên sách báo, mà sự thực là sẽ tới từ 30 đến 35 tỉ đô la cho các nhà máy điện hạt nhân như vậy.

Ngoài ra, vì lý do kỹ thuật của điện hạt nhân rất tinh vi, đòi hỏi rất nhiều nhân sự, thời gian, thiết bị đắt tiền; rủi ro cao có kiện cáo với các công ty ngoại quốc, mình phụ thuộc vào họ hầu như 100%, và sự kiện cáo sẽ rất lớn, cũng giống như các công ty hiện nay ở Mỹ, Phần Lan đều có những vụ kiện cáo, bởi vì cuối cùng vẫn là tranh chấp về tiền. Mình không đủ tiền để trả cho những đòi hỏi của họ, và họ đòi hỏi mình nhiều tiền hơn, thành ra hai bên hay kiện tụng nhau. Và khi có kiện tụng, mình phải ra trước tòa án quốc tế, chứ mình không thể đơn phương đứng ra xử, như xử các công ty Việt Nam.

Chính vì những lý do đó nên các rủi ro rất cao. Trong khi đó, sản phẩm cuối cùng vẫn chỉ là điện mà thôi, điện của nhà máy điện hạt nhân thì cũng giống điện của nhà máy thủy điện, nhà máy than; và chính phủ Việt Nam đã nói rõ là ta không muốn làm bom, tại sao ta lại tìm phương pháp khó khăn, bụi gai bụi rậm mà ta đi vô, thay vì đi bằng con đường dễ dàng, quang đãng để có điện cho người dân dùng.”

TS Đoàn nhấn mạnh đến vấn đề nhân lực:

“Chính Việt Nam cũng nói ta không có người. Chính ông Giám đốc các cơ quan nguyên tử của Việt Nam nói rằng nhân sự của Việt Nam trong hai ba chục năm qua thì những người đã được đào tạo bài bản thì họ đã già mất rồi, những người trẻ sau này thì đi theo những trào lưu dễ dàng hơn là đi làm điện nguyên tử hoặc đi khảo cứu về hạt nhân. Thành ra có thể nói rằng ta phải đào tạo từ đầu, và cái giả thiết của những người muốn xây nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam cũng rất thô sơ.

Họ nói rằng Việt Nam có nửa triệu sinh viên đậu đại học, chỉ cần gửi 5.000 người đi ngoại quốc, và trong 5.000 đó chỉ có 10% tức là 500 người quay trở về Việt Nam thì ta cũng đủ sức rồi. Nói như vậy thì quá thô sơ và dùng tài nguyên quốc gia phung phí quá bừa bãi. Họ đâu biết rằng làm như vậy là đưa chất xám Việt Nam đi học những chuyện không cần thiết, trong khi những việc rất cần thiết cho kinh tế Việt Nam thì không được chú trọng.

Gửi 5.000 người đi ngoại quốc là mất 250 triệu đô la, mình đâu đủ tiền mà làm như vậy, nhưng vẫn cứ làm và chấp nhận mất đi 90%. Đó không phải là một chính sách quốc gia.”

Các nhà khoa học bên trong Việt Nam cũng có nhiều người khuyên can là không nên tiến hành dự án này. Chúng tôi hỏi TS Đoàn các ý kiến của ông có khác nhiều so với ý kiến của các nhà khoa học bên Việt Nam hay không. Ông nói:

“Không, các nhà khoa học có trách nhiệm ở Việt Nam như giáo sư Phạm Duy Hiển và một vài người khác mà tôi biết đều có cùng một quan điểm là nếu ta chỉ muốn sản xuất điện không thôi thì tại sao ta lại chọn cách đắt gấp ba gấp bốn lần cách ta có?

Tôi không thấy có sự hãnh diện nào cho Việt Nam cả, bởi vì ba bốn chục nước đã có điện hạt nhân rồi, ta không phải là nước duy nhất. Cái hãnh diện quan trọng nhất là làm sao cho người dân được sung sướng, hạnh phúc, và ngoại quốc kính nể sự thành thật, chính đáng, quân tử, tánh tình tốt của người dân mình; không phải chỉ hời hợt bên ngoài là tôi cũng có điện hạt nhân. Bởi vì ta đâu có làm ra cái đó, ta đi mua của người ta, đi vay của người ta. Thành ra những cái đó là những sự tiêu pha phung phí của một người mà Việt Nam gọi là ‘công tử bột,’ không biết gì nhưng cứ làm bừa đi để mà lấy làm hãnh diện, một thứ hãnh diện sai.”

Và sau đây là những ý kiến khác của TS Đoàn trước khi chấm dứt buổi trao đổi với VOA:

“Người Việt Nam trong và ngoài nước ai cũng muốn thấy dân giàu; nước mạnh; xã hội công bình, dân chủ, văn minh; giống hệt những điều mà chính phủ Việt Nam nói. Nhưng khi sử dụng ngân sách quốc gia cần phải có thứ tự, những gì quan trọng nhiều thì làm trước.

Điều quan trọng nhất ở Việt Nam bây giờ là làm sao xóa đói giảm nghèo, cứu trợ những người bị lụt lội, xây nhà thương cho bệnh nhân, trường học cho trẻ em là thế hệ tương lai. Làm điện hạt nhân là chuyện rất phí phạm. Tôi tiên đoán là trong 10 hay 15 năm nữa ta cũng chưa có điện hạt nhân đâu.

Những người làm chính sách nên suy nghĩ ngay từ bây giờ, giảm bớt những phung phí như đưa người đi khắp thế giới đi thăm nhà máy này nhà máy nọ; gửi người đi học điện hạt nhân một cách phung phí; trong khi những việc quan trọng nhất, ngay bên cạnh chúng ta – như xe cộ, vệ sinh công cộng, nước sạch cho người dân – đều không có hoặc chỉ có ít thôi. Thế thì ta nên chú trọng những chuyện đó, nó quan trọng hơn cho sự hãnh diện của quốc gia, và quan trọng hơn cho hạnh phúc của người dân.”

Phát biểu của TS Phùng Liên Đoàn có thể nghe qua đường dẫn bên mặt.

Quý vị có thể tìm hiểu thêm về những ý kiến chuyên môn của ông qua các bài tham luận được đăng trên trang khoa học.net.

VOA

Điện hạt nhân không phải là chuyện để đua đòi

Việt Nam đang cân nhắc cùng lúc nhiều dự án phát triển năng lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng.

Chính phủ Việt Nam vừa trình Quốc Hội dự án phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam. Theo đó, Việt Nam sẽ xây dựng một nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận và đưa vào sử dụng bốn lò phản ứng với công suất 4,000 MW trong giai đoạn từ 2020 đến 2022.

Cũng theo dự án này, đến năm 2025 Việt Nam sẽ xây dựng thêm bốn lò phản ứng nữa để nâng tổng công suất lên 8.000 MW.

Đã có khá nhiều chuyên gia, trí thức người Việt, ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam, trình bày sự lo ngại của họ và phân tích những rủi ro của dự án đầu tư vừa kể, đồng thời khuyến cáo các đại biểu quốc hội nên cân nhắc kỹ lưỡng khi biểu quyết phê duyệt dự án phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam.

Trong số này có Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn, hiện cư ngụ tại Texas (Hoa Kỳ) từng là cố vấn cho Bộ Năng Lượng và Cơ Quan Giám Định Luật Lệ Hạt Nhân của Hoa Kỳ, đồng thời đã tham gia thiết kế bốn nhà máy điện hạt nhân, khảo cứu và phúc trình về sự an toàn và giá thành của điện hạt nhân so với các nguồn tạo điện khác, về hiện tượng hâm nóng khí quyển do việc sử dụng năng lượng toàn cầu, ông cũng là người đã tham gia tẩy uế phóng xạ tại 10 trung tâm nguyên tử khắp Hoa Kỳ.

… bởi vì người ta có rất nhiều cách có thể làm ra điện như là đốt bằng than, đốt bằng dầu, đốt bằng hơi khí, hoặc là dùng năng lượng tái tạo.

TS Phùng Liên Đoàn

Mời quý vị nghe cuộc trao đổi giữa Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn với phóng viên Trân Văn của Đài Á Châu Tự Do (RFA)…

Xu hướng thời đại

Trân Văn: Thưa ông, Chính phủ Việt Nam cho rằng điện hạt nhân là xu hướng có tính tất yếu của thời đại nhằm bảo đảm yêu cầu cung cấp đủ điện cho các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội đối với mọi quốc gia. Theo ông, quan niệm đó có chính xác không? Vào lúc này, nhìn trên bình diện toàn cầu, có đúng là điện hạt nhân đang được xem như xu hướng tất yếu của thời đại và có phải quốc gia nào cũng chọn hoặc sẽ chọn điện hạt nhân như giải pháp tối ưu để bảo đảm an ninh năng lượng?

TS Phùng Liên Đoàn: Cần phải cẩn thận khi nói “xu hướng của thời đại”. Khi ta làm kinh tế và điều khiển một quốc gia thì ta phải để ý chuyện gì tốt nhất cho quốc gia, tốt nhất cho người dân của mình, còn nói xu hướng của thời đại là điện hạt nhân thì không đúng đâu, bởi vì người ta có rất nhiều cách có thể làm ra điện như là đốt bằng than, đốt bằng dầu, đốt bằng hơi khí, hoặc là dùng năng lượng tái tạo.

Nói “xu hướng của thời đại” thì không đúng, bởi vì trên thế giới có hơn 180 nước mà chỉ khoảng 36-37 nước có điện hạt nhân. Có thể nói những nước tân tiến, những nước giàu và có kỹ thuật cao thì họ có xu hướng làm điện hạt nhân, còn hầu hết các quốc gia khác trên thế giới thì làm chuyện dễ nhất trước, tức là họ tìm những nguồn năng lượng chung quanh, trong quốc gia của mình để sản xuất điện cho kinh tế của mình từ từ tăng lên trước khi nghĩ đến điện hạt nhân.

Lợi ích hay đua đòi

Trân Văn: Thưa Tiến sĩ, ngoài yếu tố “xu hướng có tính tất yếu của thời đại”, chính phủ Việt Nam cho biết rằng, quyết định lựa chọn việc phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam còn dựa trên các lợi ích về kinh tế, về môi trường, thậm chí là về xã hội nữa.

Chúng tôi được biết ông từng là tác giả một số bài viết, vừa tính toán, vừa phân tích sâu về các yếu tố vừa kể đối với Việt Nam, nếu Việt Nam chọn điện hạt nhân.

Ông có thể tóm tắt những phân tích và thông báo những tính toán của ông cho thính giả của Đài chúng tôi? Việc phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam có thực là sẽ đem lại những lợi ích to lớn và đa dạng?

TS Phùng Liên Đoàn: Đứng về phương diện kinh tế, tôi là một nhà kinh doanh, tôi đã có một công ty từ 26 năm nay và ngày nào cũng cọ xát với thị trường, thành ra vấn đề lợi nhuận, vấn đề tiền vô và tiền ra là một vấn đề rất quan trọng.

Thấy thiên hạ nói về môi trường, ta cũng nói môi trường, thấy thiên hạ nói hâm nóng khí quyển toàn cầu thì ta cũng tưởng là ta chọn điện hạt nhân để ta giúp cho khí quyển thế giới đỡ bị hâm nóng. Tuy nhiên đó chỉ là theo đòi người ta mà thôi.

TS Phùng Liên Đoàn

Đối với quốc gia thì cũng vậy. Điện hạt nhân đòi hỏi một thời gian rất dài, từ 10 cho đến 15 năm. Một nước bắt đầu muốn làm nhà máy điện hạt nhân phải có một nền tảng hạ tầng rất là lớn và tinh vi. Chỉ lớn không thì không đủ, còn phải rất tinh vi và có kỷ luật. Thành ra khi nói là dùng điện hạt nhân để kích thích kinh tế, môi trường và cả xã hội thì đó là một lời nói gần giống như là quảng cáo.

Muốn kích thích kinh tế, môi trường và xã hội thì phải nhìn rõ cấu trúc của kinh tế, của môi trường và xã hội của ta ra sao. Ta phải đi từ từ, từ những cái dễ nhất, theo phương pháp mình làm 10% mà có thể sửa sang được 90%. Về môi trường cũng vậy, ta hay bắt chước thiên hạ chứ không có những suy nghĩ riêng của ta. Thấy thiên hạ nói về môi trường, ta cũng nói môi trường, thấy thiên hạ nói hâm nóng khí quyển toàn cầu thì ta cũng tưởng là ta chọn điện hạt nhân để ta giúp cho khí quyển thế giới đỡ bị hâm nóng. Tuy nhiên đó chỉ là theo đòi người ta mà thôi. Môi trường khắp Việt Nam chỗ nào cũng đầy rác rưởi, rừng của ta bị đốn rất nhiều, những chuyện đó có liên quan gì đến điện hạt nhân đâu, đó là cách quản lý của ta thôi.

Ta không quản lý chuyện gần mà lại nói những chuyện đua đòi giống như Châu Âu: Đan Mạch, Thuỵ Điển, hoặc là Mỹ thì rất phiến diện. Đó là cách của những người không có hiểu biết thật sâu mà chỉ muốn đua đòi với những cái mới nhất, những cái “xôm” nhất trong thời đại mà thôi.

VN không thiếu năng lượng

Trân Văn : Thưa ông, dù sao thì tại Việt Nam vẫn đang tồn tại một thực tế mà không có bất kỳ ai, từ viên chức chính phủ cho đến dân chúng cảm thấy hài lòng, đó là tình trạng thiếu điện kéo dài, trong khi đó thì nguồn điện từ thuỷ điện được cho là đã khai thác hết mức.

Cách đây vài ngày, thậm chí Chính phủ Việt Nam còn cho biết là đang dự tính nhập khẩu than, nếu nghe ông và những người đồng quan điểm với ông, không chọn biện pháp phát triển điện hạt nhân thì Việt Nam làm sao có đủ lượng điện cần thiết để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội?

TS Phùng Liên Đoàn: Lời nói đó cũng không đúng! Mình còn nhiều cơ hội để sản xuất điện và tiết kiệm điện, để đỡ phải sản xuất điện. Ta có rất nhiều đập nước từ lớn tới nhỏ, xây một đập nước thì dễ hơn nhiều bởi vì rộng rãi, chủ yếu là dùng xi măng, cốt sắt và giải quyết các vấn đề địa chất. Trong khi xây cất nhà máy điện hạt nhân đòi hỏi những kỹ thuật rất cao, cao hơn cả những kỹ thuật về không gian, bởi vì nó có cả trăm ngàn yếu tố ở bên trong mà ta không thể làm nổi, phải nhập cảng hết.

Trong khi xây cất nhà máy điện hạt nhân đòi hỏi những kỹ thuật rất cao, cao hơn cả những kỹ thuật về không gian, bởi vì nó có cả trăm ngàn yếu tố ở bên trong mà ta không thể làm nổi, phải nhập cảng hết.

TS Phùng Liên Đoàn

Vậy thì tại sao ta lại không nhìn vào những nguồn năng lượng chung quanh ta? Nói là ta hết than thì chính phủ đã có những khảo cứu nào về than (?), đã cho những nhà khoa học Việt Nam và khoa học thế giới biết về lượng than của ta chưa?

Có một nguồn năng lượng mới là hơi khí! Từ xưa đến nay, ta vẫn nghĩ rằng hơi khí từ mỏ dầu hoặc là những mỏ ở dưới đất mà ra nhưng ngày nay, tại Mỹ có một phương pháp mới. Đó là họ dùng phương pháp khoan ngang, đào một giếng thật sâu, từ nhiều độ sâu khác nhau, họ khoan ngang ra nhiều cây số về bốn phía và họ tìm ra lượng trữ khí của Mỹ rất nhiều, nhiều đến nỗi mà giá của hơi khí tại Mỹ bây giờ tụt nặng, chỉ tương đương 30 đồng một thùng dầu, trong khi dầu nhập cảng thì từ 75 cho tới 80 đồng một thùng. Mỹ có chương trình thúc đẩy việc đốt hơi khí để làm điện. Nước Mỹ mà làm như vậy thì ta nên tự hỏi việc kiếm thêm nguồn năng lượng tại Việt Nam có dễ dàng hơn và có lợi hơn cho khoa học – kỹ thuật Việt Nam (?) và ta có thể tìm được nhanh hơn (?), hay là đi mua một nhà máy điện nguyên tử mà ta phải trả 100% tiền vốn, còn trong nước, ta không có kỹ thuật nào có thể đáp ứng được.

Bởi vậy cho nên tôi nghĩ là ta cần phải rất cẩn thận khi nhảy tới một kết luận rất là phiến diện, không có những dữ kiện thật tốt.

Cần phải để cho người dân và những nhà khoa học người Việt biết tất cả những chuyện đã xảy ra. Tôi không tin những tin tức là ta thiếu nguồn năng lượng ở Việt Nam.

Sự thiếu điện ở Việt Nam ta do quản lý mà ra chứ không phải vì ta thiếu nguồn năng lượng.

TS Phùng Liên Đoàn

Còn một thứ nữa, một cách mà người ta gọi là bảo tồn năng lượng, đó là phương pháp để dành. Việt Nam ta phí điện rất nhiều. Người ta dùng điện tăng 10% khi kinh tế tăng 10%, trong khi ta dùng điện tăng 20% mà kinh tế của ta chỉ tăng 10%. Đó là dùng điện rất phí.

Tôi để ý rằng, ta có bảy, tám phương pháp khác nhau để có thể bảo tồn và để dành điện, dùng điện một cách hữu hiệu hơn. Khi ta dùng điện một cách hữu hiệu hơn thì giá các nhà máy điện chỉ bằng 1/10 giá nhà máy nguyên tử thôi. Ta chưa khảo sát kỹ về những vấn đề đó mà đã nhảy lên là ta thiếu điện.

Sự thiếu điện ở Việt Nam ta do quản lý mà ra chứ không phải vì ta thiếu nguồn năng lượng.

Có nhiều rủi ro

Trân Văn: Thưa ông, sắp tới có thể Quốc hội Việt Nam sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc có lựa chọn điện hạt nhân, như một giải pháp bảo đảm an ninh năng lượng cho Việt Nam hay không. Với tư cách một trí thức người Việt, có kinh nghiệm và hiểu biết về điện hạt nhân, ông có đề nghị gì với các đại biểu Quốc Hội Việt Nam không?

TS Phùng Liên Đoàn: Tôi nghĩ rằng các dân biểu quốc hội cần phải chất vấn chính phủ nhiều hơn, thay vì chỉ nghe trình bày một cách phiến diện, xong rồi cho đó là chính sách lớn của chính phủ và biểu quyết.

Một quốc hội đại diện cho người dân, làm chủ đất nước thì luôn luôn phải hạch hỏi chính phủ có làm đủ nghĩa vụ của chính phủ hay không. Nếu chính phủ không trả lời được thì phải đòi hỏi chính phủ tìm hiểu kỹ hơn, phải đòi hỏi có những phản biện của người dân, phản biện của giới khoa học để biết thật rõ ngọn nguồn.

Điện hạt nhân là một vấn đề rất vĩ đại, không phải là vấn đề an toàn! Rủi ro to nhất của điện hạt nhân là tốn quá nhiều tiền, mất rất nhiều thời gian và có thể là một mục tiêu cho sự phá hoại. Khi có chiến tranh thì đó là mục tiêu đầu tiên bị bắn phá. Người ta bắn phá không phải là để cho phóng xạ tuôn ra đâu! Người ta bắn phá để cho nhà máy chết đi, không sản xuất điện được nữa và như vậy, khi cả nền kinh tế phụ thuộc vào một nhà máy rất lớn như nhà máy điện hạt nhân, sẽ bị tê liệt. Chính vì lý do đó, đối với Việt Nam, nhà máy điện hạt nhân có rất nhiều rủi ro về an toàn cho quốc phòng và cho kinh tế.