Người lính già Khóa 12 Thủ Ðức điểm danh lần cuối

Posted on August 17, 2012

0



Hôm nay vừa tròn chu kỳ 50 năm ngày chúng ta ra trường năm 1962. Chu kỳ tới vào năm 2060, sẽ không còn ai trong chúng ta của Khóa 12 Thủ Ðức nữa nên sau lần điểm danh thứ nhất khi nhập quân trường vào năm 1962 thì đây là lần điểm danh thứ hai và cũng là lần điểm danh sau cùng của Khóa 12 Thủ Ðức.

Ðó là lời phát biểu của cựu SVSQ Thủ Ðức Nguyễn Trọng Thu, trong ban tổ chức, khai mạc buổi họp mặt toàn thế giới các thành viên Khóa 12, tại nhà hàng Paracel, Westminster, hôm Chủ Nhật.

Quân kỳ trường Thủ Ðức rũ xuống trước bàn thờ tổ quốc trong lễ đặt quân kỳ rũ lần điểm danh cuối cùng của Khóa 12 Thủ Ðức. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Lời phát biểu đã làm cho không khí lắng đọng ngay giữa tiếng ồn ào mừng vui gặp lại của anh em cựu SVSQ Thủ Ðức khắp nơi tụ về. Ai nấy như sững lại, chợt nghĩ đến cái thời gian chẳng bao giờ tạm ngưng nghỉ để cuộc đời còn được kéo dài thêm chút nữa. Ai nấy cùng như nắm chặt bàn tay nhau hơn, vòng tay bỗng ôm siết hơn, nụ cười bỗng lớn hơn.

Rồi cuộc điểm danh lần cuối bắt đầu.

Ðèn nhà hàng được yêu cầu tắt hết để không gian u uất đón những anh linh của các bạn đồng khóa đã hy sinh trong chiến cuộc Việt Nam trở về cùng điểm danh lần chót. Lá cờ quân trường phủ xuống trong lễ đặt cờ rũ trước ảnh tượng Ðức Trần Hưng Ðạo, được vị tổng thống đầu tiên của nền Cộng Hòa miền Nam Việt Nam lấy đặt tên cho khóa vào ngày mãn khóa học.

Nghi lễ khá là trang trọng với hai đoàn hầu kỳ của SVSQ Thủ Ðức vùng Orange County & Phụ Cận và Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Ðức San Jose trong những bộ quân phục đại lễ khiến cho toàn thể những người lính già của Khóa 12 Thủ Ðức cùng bồi hồi nhớ lại cảnh ngày ra trường, tưởng như mới hôm nào gần đây thôi.

Ông Nguyễn Trọng Thu, trong bài diễn văn khai mạc, đã trải ra một tâm sự gần như là một tâm sự chung của những người lính già Khóa 12.

Ông nói: “Tổ chức được như thế này với anh em trong khóa từ khắp nơi tụ về quả là một chuyện hãn hữu. Năm mươi năm trước chúng ta là những mái đầu xanh từ khắp nơi xếp bút nghiên để vào quân trường Thủ Ðức cùng đứng trong hàng quân mà điểm danh lần đầu với lời nguyền ‘đem xương máu bảo vệ quê hương.’ Hôm nay, chúng ta cũng từ khắp nơi tụ về, mái đầu không còn xanh nữa, nhưng vẫn còn trong hàng ngũ để điểm danh lần thứ hai và cũng là lần chót.

Lần này chúng ta điểm danh trong thân phận chung của người lính VNCH bị bắt buộc phải tan hàng, nhưng chúng ta vẫn còn nêu cao được tinh thần ‘Danh Dự, Tổ Quốc, Trách Nhiệm’ mà chúng ta nguyện ghi nhớ khi bước ra khỏi quân trường đi khắp bốn vùng chiến thuật. Tinh thần ấy vẫn không suy sút khi chúng ta vẫn còn là người lính VNCH chưa giải ngũ, nay đang ở ngoài nước. Tinh thần ấy đã khiến chúng ta giữ vững được lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ của quốc gia Việt Nam biểu tượng cho tự do và nhân quyền. Chúng ta đã thực hiện được câu nói ‘Một ngày là lính, một đời là lính.’ Khi Chuẩn Tướng Lam Sơn, vị chỉ huy trưởng quân trường của chúng ta, nằm xuống trăn trối với gia đình là sau này đem về an táng ở Việt Nam nhớ phủ lá cờ vàng trên thân xác của ông thì những người lính già của Khóa 12 Thủ Ðức cũng có cùng một tâm nguyện với vị chỉ huy trưởng của mình.”

Cuộc điểm danh cụ thể sau đó được diễn ra với lời giới thiệu của ban tổ chức cho biết anh em Khóa 12 Thủ Ðức từ Úc bay qua là 12 người, Texas 29 người, Maryland 50 người, Florida 5 người, Arizona 4 người, Pennsylvania 4 người, Canada 1 người, tổng cộng là 180 người từ xa về, nhiều nơi còn mang theo cả đoàn hậu duệ. Riêng tại Nam California thì gần 300 anh em đã có mặt.

Cựu SVSQ Lê Bá Bình, một anh hùng của Mũ Xanh TQLC, lên kể đến một vài chi tiết của khóa học. Ông nói: “Khóa 12 Thủ Ðức vinh dự được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tới chủ tọa lễ mãn khóa, đã đặt lên vai chúng ta cái cấp bậc tiên khởi trong hàng ngũ sĩ quan của QLVNCH và đặt tên khóa là Trần Hưng Ðạo. Quả là một danh dự. Nhập khóa có 1,479 người nhưng trong thực tập, hai người đã hy sinh nên khi ra trường chỉ còn 1,477 sĩ quan. Tất cả đều tốt nghiệp, không có ai bị rớt. Gần 1,500 sĩ quan đó đã được tung vào khắp các đơn vị của QLVNCH để trở thành những người lính ưu tú trong nhiệm vụ và trách nhiệm của mình.”

Cũng có mặt trong cuộc điểm danh lần cuối này thủ khoa của khóa, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Linh. Ông bày tỏ lòng kính phục sự hy sinh của những người vợ lính trong suốt cuộc chiến Việt Nam.

Ông nói: “Chính sự hy sinh của các chị đã khiến cho chúng tôi yên tâm diệt giặc nơi tiền tuyến bảo vệ được miền Nam trong suốt 20 năm. Nhân đây tôi xin đề nghị, không cần phải đợi một chu kỳ tới 50 năm nữa mà hãy luôn điểm danh nhau khi chúng ta còn điểm danh được. Tuy chưa biết sau điểm danh chúng ta sẽ làm được cái gì nhưng được nhìn lại nhau, biết được còn trong hàng ngũ là điều vui mừng lắm rồi.”

Nói với chúng tôi trong vài phút phỏng vấn, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Linh kể lại: “Khi bị gọi nhập ngũ thì lúc ấy cũng buồn lắm chứ. Ðang thênh thang đời dân sự thì bỗng phải vào khuôn vào phép. Tuổi tôi đáng lẽ là đi từ Khóa 1 Nam Ðịnh, nhưng được hoãn vì đang du học. Khi về, ông Diệm có nói ‘hãy làm gương cho giới trí thức’ nên tôi vui vẻ lên đường. Trong đời lính tôi cũng ra mặt trận nhiều lần khi ở Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, rồi lên Pleiku với Sư Ðoàn 2, rồi về Quân Ðoàn II. Mãi sau tôi mới được chuyển về làm tổng giám đốc đài phát thanh, rồi Việt Tấn Xã, và sau cùng thì theo ông Kỳ tham dự phái đoàn ở Paris. Ðời lính có vui có buồn, với những kỷ niệm khó quên nên từ Texas về gặp lại anh em cùng khóa tôi cảm thấy bồi hồi xúc động lắm.”

Sáu phu nhân đại diện cho chị em vợ lính của Khóa 12 Thủ Ðức được toàn khóa vinh danh. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Một người khách đặc biệt mà ban tổ chức giới thiệu là cô Phan Ðình Bảo Kim, từ Úc qua, trong đoàn phóng viên của đài TV Úc, chương trình tiếng Việt. Cô Bảo Kim là ái nữ của Chuẩn Tướng Lam Sơn. Cô cho biết ngày sinh của cô trùng với ngày Khóa 12 ra trường nên cô xin được làm một đứa con trong gia đình Khóa 12 Thủ Ðức. Bảo Kim cũng cho biết là hiện cô đang hướng dẫn một tổ chức hậu duệ những người lính VNCH ở Úc.

Trước khi chương trình được chuyển sang phần văn nghệ và tiệc mừng hội ngộ, ban tổ chức đã mời sáu phu nhân đại diện cho các người vợ lính Khóa 12 để anh em đại diện khóa tặng những bó hoa tri ân sự hy sinh âm thầm nhưng vĩ đại của các chị trong suốt thời gian chồng phải đánh giặc miền xa cả trong thời gian hòa bình đến nhưng lại phải bị giam giữ trong các trại khổ sai cải tạo của chế độ cộng sản đã cưỡng chiếm toàn đất nước.

–—

Liên lạc tác giả: NguyenHuy@nguoi-viet.com

Ngồi lại bên nhau

Mặc cho những dao động về chính trị và kinh tế tại Hoa Kỳ. Mặc cho những lao xao về đủ mọi tin tức trong cộng đồng Việt Nam, từng nhóm anh em vẫn đi tìm hình ảnh quá khứ để ngồi lại bên nhau.

Mỗi độ Xuân về, các Hội đồng hương họp mặt đón Xuân. Sau Tết, các binh chủng chào mừng tân niên. Hè về anh em ta kéo nhau ra công viên Picnic. Hải Quân họp mặt theo từng khóa. Không Quân xum họp theo phi đoàn. Từ hai miền Nam Bắc Cali, quanh năm đều có những sinh hoạt tùy theo từng quê quán, quân trường,trường học và trường đời, đủ các sắc thái…

Năm nay bọn này họp ở San Jose, năm tới chúng tôi xuống chơi quận Cam. Xe đò Hoàng chạy tới chạy lui. Có ngày tăng cường thêm chuyến buổi chiều.

Riêng cái khóa Cương Quyết II Thủ Ðức và Ðà Lạt của chúng tôi cũng cùng chung một nhịp sống. Cũng Nam Bắc Cali họp đi họp lại.

Năm 2004 chúng tôi kỷ niệm 50 năm của một khóa quân trường. Năm 54 vào trường Ðà Lạt có 300 sinh viên. Về gặp lại sau nửa thế kỷ có 70 ông cụ. Ðược coi là thành tích vẻ vang.

Tiếp đến, năm 2009, kỷ niệm 55 năm, lần đầu tiên chúng tôi họp mặt Cương Quyết II gồm cả Thủ Ðức và Ðà Lạt tại San Jose. Gọi là họp khóa lúc hoàng hôn nhưng thực ra là họp khóa ngậm ngùi. Một anh bạn chúng tôi, trung tá Lê Xuân Ðịnh nguyên giám đốc cơ sở USCC tại Los Angeles đã đưa được xe lăn lên phi cơ mà đến với anh em. Khi đêm về, chúng tôi thắp nến lung linh để tưởng niệm bạn cùng khóa đã ra đi.

Ðó là chuyện năm ngoái. Cuối tuần này, anh em chúng tôi lại kéo nhau xuống miền Nam để tiễn đưa Lê Xuân Ðịnh lần cuối. Chúng tôi không muốn gọi là đi đưa đám. Ðây cũng là họp khóa. Dù trong tang tóc, dù còn lại chẳng được bao nhiêu, nhưng mỗi lần gặp mặt là một lần họp khóa.

Lê Xuân Ðịnh ra đi năm nay, vào cuối tháng 7-2010. Cái tháng 7 có quá nhiều kỷ niệm. Năm 1954, cũng vào tháng 7 chúng tôi ngồi trong Hội trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt nghe tin Genève chia đôi đất nước. Bây giờ cũng là giây phút chia tay anh em.

Bạn Ðịnh năm nay 77 tuổi. Nếu 70 năm đầu, anh có thể tung hoành ngang dọc thì 7 năm cuối cùng tất cả trăm sự nhờ vợ. Nhà thơ Hồng Phượng của khóa chúng tôi, đã dành 7 năm nuôi chồng ngồi trên xe lăn. Và tháng 7 cuối cùng, chị đã ngồi bên anh cho đến giây phút lâm chung trong bệnh viện.

Ðầu thập niên 70, chiến trường miền Trung đã lấy đi một anh bạn cùng khóa. Khi tiễn đưa Ðại Tá Nguyễn Thế Nhã,Trung đoàn trưởng Sư Ðoàn 1 Bộ binh, tôi đặt một vòng hoa có băng tang chạy ngang hàng chữ:

Thương tiếc Nguyễn Thế Nhã, anh hùng

Gần 40 năm sau, chúng tôi đã già nua và khiêm tốn hơn. Lần này chúng tôi chỉ ghi rằng :

Thương tiếc Lê Xuân Ðịnh, tử tế

Một chiếc xe lăn cô quạnh đặt cạnh bàn thờ, anh Ðịnh nằm yên nghỉ trong quan tài. Chúng tôi đứng chung quanh, chúng tôi họp khóa thêm một lần nữa. Chúng tôi là những người anh hùng mỏi mệt, chúng tôi chỉ còn cố gắng sống như những người tử tế. Tiễn đưa một người tử tế nhất trong anh em vừa ra đi.

Khóa Trần Hưng Ðạo

Chuyện họp khóa của chúng tôi tuy có Cương Quyết nhưng vẫn là chuyện buồn. Tại San Jose chuyện họp khóa của ông Bùi Quý Ngọc là chuyện vui và trẻ trung hơn nhiều.

Khóa Thủ Ðức mang số 12 được Tổng Thống Diệm đặt tên là khóa Trần Hưng Ðạo, so ra còn nhiều phong độ. Vào trường năm 61 ra truờng ngày 1 tháng 8-1962. Tổng số 1560 sinh viên, được may mắn tốt nghiệp 100% chuẩn úy, không anh nào bị đeo trung sĩ cánh gà.

Ông Ngọc Bùi hiện là người tình nguyện phụ trách chương trình tiệc Việt Nam cho homeless Hoa Kỳ tại San Jose đã trên 15 năm.

Ông và các bạn hăng hái tổ chức họp khóa cuối tuần này, nhưng đây chỉ là buổi sơ giao để chuẩn bị cho giấc mơ vĩ đại vào năm 2012 mới đúng là họp mặt sau 50 năm.

Trong các câu chuyện ngồi lại bên nhau, trường nào, khóa nào, quê hương nào cũng tự coi là đặc biệt hơn cả. Khóa 12 Thủ Ðức của Ðức Thánh Trần cũng như vậy. Tôi được nghe  anh em nói rằng đây là khóa động viên đầu tiên của nền đệ nhất Cộng Hòa.

Khóa của người ta khi vào Ðà Lạt là tuổi trẻ trên dưới 20. Ða số là 18 hay 19 tuổi.

Khóa động viên này tuổi từ 18 mà lên đến ngoài 30. Anh thì có bằng cấp, anh có vợ con, anh có chức phận, có những anh thật giàu và cũng có anh thật nghèo.

Nhiều anh từ bên Tây bên Mỹ du học về, đem theo vợ đầm tóc vàng sợi nhỏ. Mỗi lần thăm viếng, cô vợ đầm ngồi khóc kiểu Tây. Anh em sinh viên độc thân cùng khóa kéo nhau ra xem mắt xanh nhỏ lệ chung tình. Khóa động viên đầu thập niên 60 có nhiều tay danh tiếng. Nào là Châu Kim Nhân, Ngô Khắc Tịnh, Hà Xuân Trừng, Nguyễn Văn Ngân, Nguyễn Ngọc Linh…

Vào thời đó, bạn Nguyễn Ngọc Linh của tôi cao ráo, sạch sẽ lại nói được tiếng Tây, tiếng Mỹ nên tướng Lam Sơn chọn làm thủ khoa.

Sau này những tên tuổi của khóa 12 đều trở thành các thành phần quan trọng trong chính phủ.

Tôi hỏi chuyện anh em là các sinh viên võ khoa 12 có học hỏi gì được ở các vị chỉ huy trưởng hay không? Anh em ai nấy đều cười mà nói rằng chúng tôi tự học lấy trong trường đời. Nếu theo gương các vị chỉ huy trưởng thì chỉ có từ chết đến bị thương. Hỏi đi hỏi lại mới biết rằng thời đó anh em vào trường có tướng Hồ Văn Tố chỉ huy. Nữa đường ngài đứt gánh giữa khi lâm trận trăng hoa nên tướng Lam Sơn lên thay.

Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ký lệnh động viên nên đã nhiều phen lên Thủ Ðức thăm sinh viên và ông giảng giải cả buổi về tác phong đạo đức sĩ quan. Chuyện tướng Tố bị thượng mã phong ngay giữa chốn quân trường xảy ra như thế, ông Diệm giận biết chừng nào. Tôi hỏi nhỏ anh em là các cậu có biết ai là người báo cáo cho Tổng thống biết đầu đuôi câu chuyện đã diễn tiến như thế nào?

Nhưng rồi mọi việc cũng trôi qua. Ngày mãn khóa 1560 chuẩn úy xếp hàng chờ đợi khá lâu. Tổng thống cố gắng đi duyệt qua tất cả các hàng quân. Ông bắt tay hàng trăm sinh viên. Tuy là đã huấn nhục 10 tháng, nhưng anh em sinh viên thuộc hàng trí thức, vác súng Garant đứng nghiêm cả giờ đồng hồ, chịu không nổi đã có một số bị té sỉu.

Hàng phía sau, anh nào sỉu thì khiêng ra, phía trước ông tổng thống cứ nhẩn nha đi bắt tay anh em. Chính những câu chuyện kỷ niệm nhỏ bé như thế làm các bạn cùng khóa nhớ mãi suốt đời.

Bác Ngọc Bùi sẽ ghi nhận để cùng anh em chia sẻ ngọt bùi cho kỳ họp khóa 50 năm vào tháng 8 năm 2012. Năm nay tháng 8-2010 chỉ mới là chuẩn bị. Hỏi rằng hy vọng năm 2012 sẽ về được bao nhiêu.

Trả lời rằng nếu về được 20% thì sẽ có 300 người. Nếu về được 10% thì sẽ có 150 người. Kể cả Nam Bắc Cali. Dù là 10% hay 20% thì chắc chắn sẽ có mặt sinh viên sỹ quan Lê Bá Bình. Anh vẫn ngồi chờ sẵn tại San Jose từ năm 1991 đến nay.

Thủy quân lục chiến Lê Bá Bình

Trong số 1560 chuẩn úy động viên khóa 12 Thủ Ðức, khi ra trường có 60 tân sỹ quan về thủy quân lục chiến.

Chuẩn úy Bình cầm danh sách cùng anh em về trình diện bộ chỉ huy mũ xanh. Ðây là lớp trung đội trưởng về nhận các đơn vị thay cho hàng trung sĩ đang nhận chức tạm thời. Chuẩn úy Bình ở lại với binh chủng từ 62 cho đến 75. Một đời lính là một đời thủy quân lục chiến. Trong quãng đời binh nghiệp lâu dài đó, anh đã từ chuẩn úy trung đội trưởng mà lên đến Trung tá Tiểu đoàn trưởng của Tiểu đoàn 3. Ðơn vị anh hùng của Thủy quân lục chiến đã thay quân biết bao lần. Năm 62 ra trường với cấp bậc chuẩn úy trừ bị, 24 tuổi khóa động viên Thủ Ðức cho đến 10 năm sau, năm 72 Tiểu đoàn Trưởng Lê Bá Bình đã từng đón nhận biết bao nhiêu đợt sỹ quan đàn em về trình diện. Nhìn các tân sỹ quan, chuẩn úy Thủ Ðức, thiếu úy Ðà Lạt, các em dưới 20 tuổi, niên trưởng thấy xót xa cho thân phận, cho binh đoàn và cho đất nước.

Những tiếng kèn khải hoàn ca vang lên trong các dịp lễ thăng thưởng, gắn huy chương dưới sân cờ vẫn không át được tiếng khóc của vợ con lính từ khu gia binh vọng về. Có lần Tiểu đoàn 3 bị mất luôn cả Trung đội súng nặng. Khu gia binh ở liền nhau cả dãy dài, chủ gia đình chết chẳng còn ai. Tiểu đoàn trưởng ngồi trong văn phòng đứt ruột nghe tiếng khóc rền rĩ của đàn bà trẻ con trong canh khuya mãi mãi chưa dứt.

Anh Bình gốc gia đình là Bắc kỳ nhưng cha mẹ đã vào Nam trước cuộc di cư. Sinh năm 1937 anh có 24 năm tuổi trẻ Saigon và 14 năm thủy quân lục chiến. Nếu xét công bình cứ một năm lính là một năm tù cộng sản thì Lê Bá Bình vẫn còn nợ cộng sản một năm tù. Anh bị tập trung cải tạo mới hơn 13 năm. Như thi sĩ Hà Thượng Nhân đã viết “ Những mái đầu cất cao, không một lời than thở”.

Thực sự, chuẩn úy Bình, Thủ Ðức khóa 12 ra trường năm 1962 không có điều gì than thở. Anh là lính chiến, nhưng ăn nói từ tốn nhẹ nhàng. Sống độc thân cho đến khi lên Thiếu Tá mới lập gia đình. Anh chị được một cháu gái 2 tuổi vào ngày đứt phim. Những năm ngoài Bắc, vợ thăm chồng được 6 lần, coi như thành tích phi thường. Năm 91 vợ chồng và con gái qua San Jose theo diện HO. Ði làm điện tử 15 năm, nay đã về hưu, chở cháu ngoại đi học. Suốt một đời chinh chiến mũ xanh, biết bao nhiêu kỷ niệm chiến trường nhưng ngày nay hình ảnh và câu chuyện của tiểu đoàn trưởng Lê Bá Bình vẫn chỉ được nhắc đến nhờ báo chí và sách vở Hoa Kỳ nói về thành tích của Tiểu đoàn 3 TQLC giữ cầu Ðông Hà trong chiến dịch mùa Lễ Phục Sinh 1972.

Cầu Đông Hà (The Bridge at Ðông Hà)

Năm 1972, trận mùa hè bắt đầu, thiếu tá Lê Bá Bình chỉ huy tiểu đoàn 3 TQLC với sự phối hợp của thiết đoàn 20 kỵ binh Việt Nam giữ phòng tuyến Ðông Hà. Bình ra lệnh giữ Ðông Hà bằng mọi giá. Cầu Ðông Hà là con đường huyết mạch trên trục Nam tiến của Bắc quân.

Chiến xa PT 76 và T 54 của cộng sản ào ào tiến tới. Cờ đỏ của địch phất phới trên cần câu truyền tin của đoàn xe tăng. Chiến xa địch tiến nhanh đến nỗi bộ binh cộng sản theo không kịp. Hai xe tăng của cộng sản từ bờ Bắc chạy ào lên cầu Ðông Hà. Chiến binh TÐ 3 TQLC hạ luôn một lượt 2 chiếc nằm chết cứng trên cầu.

Không còn lối cho xe của địch tiến quân. Hai bên Nam Bắc nằm 2 bên bờ sông, bắn nhau suốt 2 tuần lễ. Mỗi đêm đều có tấn công thăm dò. Lúc thì quân Bắc đánh qua, lúc thì quân Nam đánh lại. Lòng sông cạn , muốn thử thách cứ việc chờ đêm xuống là lội qua. Có lần mặt trận TÐ 3 đã bị vỡ nhưng lại hàn gắn lại. Ðịch bỏ xác đầy bờ sông. Và câu chuyện cầu Ðông Hà lên sách vở báo chí Mỹ là nhờ Đại úy TQLC Hoa Kỳ John W. Ripley. Một loạt hình ảnh ngoạn mục được các cố vấn chụp được khi Ripley, đơn thương độc mà đu người dưới dạ cầu để hoàn tất việc gài mìn Ðông Hà. Lúc đó anh đại úy TQLC Hoa Kỳ này là cố vấn duy nhất của Thiếu tá Lê Bá Bình.

Khi gài mìn xong, lính của Thiếu tá Bình phá cầu Ðông Hà, tuyệt đường tiến quân của cộng sản, ít ra cũng được một thời gian.

The Bridge at Ðông Hà được viết thành sách. Tác phẩm Ride the Thunder, trên lưng sấm sét. Ðại úy Ripley trở thành người anh hùng cô đơn của US Marine trong trận chiến mùa Phục Sinh 1972. Thiếu tá Bình với lời tuyên bố giữ Ðông Hà bằng mọi giá được in trên sách báo Mỹ đã trở thành tuyên ngôn rất đáng ngưỡng mộ.

Sau cùng nhờ trấn giữ và phá cầu Ðông Hà, Thiếu tá Bình thăng cấp trung tá mặt trận tiếp tục chiến dịch mùa hè cho đến khi trận tái chiến Cổ thành bắt đầu thì ông bị thương và đưa về hậu cứ. Báo Mỹ ghi rằng ông bị thương lần thứ 9. Sau đó trận rút lui 1975 ông lại ra làm Tiểu đoàn trưởng TÐ 6 TQLC để cùng chịu trận tan hàng tại Ðà Nẵng, tái hợp tại Cam Ranh và tái tổ chức tại Vũng Tàu. Ngày 39 tháng tư oan nghiệt ông cùng anh em xếp hàng vào trại tập trung.

Suốt một đời TQLC, suốt một đời tù đầy và suốt một đời di tản, Lê Bá Bình rất ít khi xuất hiện ồn ào. Cùng với Bùi Quý Ngọc và hàng ngàn sinh viên Thủ Ðức động viên khóa 12, được nhận là con cháu Ðức Trần Hưng Ðạo, các anh không có đặc san, không có đại hội huy hoàng.

Suốt một đời quân ngũ, tù đầy di tản, dù là thương binh tử sĩ hay vẫn còn tồn tại trên cõi đời, các anh mãi mãi vẫn là sỹ quan trừ bị. Tháng 8 năm 1961, tưởng là phải lính thì đi. Sau vài năm quân dịch rồi trở về. Thấm thoát 48 năm qua vẫn chưa có giấy giải ngũ. Ðành phải chờ đến năm 2012, cho đủ 50 năm dâu bể một đời. Anh em ta họp lại rồi sẽ ký giấy giải ngũ cho nhau.

Giao Chỉ

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Ðộc giả của Giao Chỉ xin đón coi nay mai, bài viết dành riêng cho 35 năm nhìn lại. Với tựa đề: “Kịch bản viết lại lịch sử”.

Xin quí vị cùng chúng tôi, ngồi vào ghế Tổng thống của Trung tướng Nguyễn văn Thiệu vào ngày 13 tháng 3 năm 1975. Ðó là ngày Ban Mê Thuột hoàn toàn bị Bắc quân tràn ngập. Ngày hôm sau, ông Thiệu đơn phương quyết định ra lệnh rút quân tại quân đoàn II và quân đoàn I.

Hoàn cảnh của đất nước giữa tháng 3-75 chúng ta đều biết rõ.

Ðịch: Sau trận thăm dò chiếm Phước Long, Lê Duẩn hạ lệnh tổng tấn công, dự trù lạc quan nhất cũng phải mất 2 năm 75 và 76 mới thành công.

Bạn: Nixon đã từ chức. Mỹ hoàn toàn bỏ rơi Việt Nam. Không một nước nào khác có khả năng cứu VNCH.

Chính trị Sài Gòn: Không khí chủ bại, muốn hòa giải.

Quân Lực VNCH, thành phần nòng cốt: Tuy giao động nhưng vẫn còn ổn định. Nếu giữ vững tinh thần, dù khó khăn vẫn còn đủ phương tiện tiếp tục chiến đấu từ 8 tháng đến 1 năm. Sau đó sẽ ra sao?

Nếu bạn là Tổng thống Nguyễn văn Thiệu vào ngày 13 tháng 3-75, thay vì rút quân và sau cùng bỏ cuộc, bạn quyết định ở lại chiến đấu. Nếu Trung tướng Nguyễn văn Thiệu chọn giải pháp quyết liệt ở lại chiến đấu, ông sẽ phải hành động ra sao trong những giờ phút oan nghiệt đó để cứu đất nước.

Bạn là Tổng thống, Bạn sẽ làm gì. Ðó chính là nội dung của “Kịch bản viết lại lịch sử” .

Trong thời hạn là 50 ngày cuối cùng, với những nhân vật có thật, với những đường lối tích cực nhưng hợp lý, với những phương tiện hoàn toàn thực tiễn, với những giải pháp khả thi, chúng ta cùng viết lại kịch bản lịch sử mới cho miền Nam.

Xin đón đọc, góp ý và cùng lấy ước mơ đem vào cuộc sống ngõ hầu giải thích cho thế hệ tương lai hiểu rõ những sai lầm của cha anh trong quá khứ.

Kịch bản viết lại lịch sử” sẽ trả lời tất cả các câu hỏi  “tại sao”  suốt 35 năm qua.

Địa chỉ liên lạc :

IRCC, Inc.1445 Koll Circle #110

San Jose, CA 95122 – USA

Emails:     irccsj@yahoo.com

giaochisanjose@sbcglobal.net

Sách mới về chiến tranh VN khiến truyền thông Mỹ không vui

Cuốn sách mới về chiến tranh Việt Nam kể lại nhiều sự thật mà giới truyền thông Hoa Kỳ trước đây tránh né, đang dẫn đầu về số bán ở Amazon.

SACRAMENTO – Ngày 15 Tháng Tám sắp tới, Viện Bảo Tàng Quân Sự thuộc tiểu bang California sẽ có một buổi giới thiệu cuốn sách mới về chiến tranh Việt Nam nhan đề “Ride the Thunder” (tạm dịch Cưỡi Sấm Sét). Trong ngày hôm ấy tác giả Richard Botkin sẽ diễn giải về nội dung cuốn sách và ký tên lưu niệm.

Theo tin báo điện tử của World Net Daily, hiện nay trên mạng ở trang nhà của Amazon.com, cuốn này đang dẫn đầu số bán về thể loại chiến tranh Việt Nam và cũng dẫn đầu số mua trong giới cựu chiến binh.. Ðồng thời Ride the Thunder cũng đứng hạng hai về lượng sách bán trong đề mục Asian History.

Theo viện bảo tàng này, tác giả Botkin đã khai mào một trào lưu mới khi “kể lại câu chuyện anh hùng của một số Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và Nam Việt Nam . Họ đã chiến đấu tuyệt vời và làm khơi dậy ngọn sóng triều của cuộc chiến trong khi các nhà làm chính sách đã buông tay đầu hàng.”

Botkin kể lại chuyện Ðại Úy John Ripley với hành động táo bạo khi phá sập cây cầu Ðông Hà; chuyện Thiếu Tá Lê Bá Bình cùng bảy trăm chiến binh TQLC đã ngăn chận được làn sóng tấn công của hai mươi ngàn quân Bắc Việt như thế nào. Trong đó cũng không quên nhắc đến kỳ công của Trung Tá Gerry Turley trong trận “Mùa Hè Ðỏ Lửa” từ một khách mời ghé lại vùng Hỏa Tuyến để thăm một số sĩ quan cố vấn, vì kẹt bởi cuộc tấn công bất ngờ năm 72, đã bất đắc dĩ trở thành vai trò lãnh đạo bên cạnh Tướng Giai can đảm ngăn trở được Quân Khu I khỏi bị tràn ngập bởi làn sóng “đỏ.”

Trong cuộc phỏng vấn đặc biệt dành riêng cho World Net Daily, tác giả Botkin giải thích người Mỹ hiểu sai về chiến tranh Việt Nam như thế nào – bởi vì họ ở xa đến 8,000 dặm, và chỉ nghe thuật lại một chiều. Botkin nói, “Về phía người Mỹ, theo tôi tất cả đều bị nghe những thông tin về cuộc chiến đã bị bóp méo và không trung thực. Ða số người Mỹ kể cả những người đã phục vụ ở Việt Nam đều không nhận thức được sự hy sinh của người dân Nam Việt Nam . Họ chính là những người yêu chuộng tự do.”

Cựu Trung tá TQLC LÊ BÁ BÌNH

Botkin sưu tập những thông tin cho thấy quân Cộng Sản thường xuyên tấn công người dân vô tội trong có đàn bà, người già và trẻ em bằng hành động pháo kích bừa bãi. Năm 1968, quân Bắc Việt tàn sát từ ba đến sáu ngàn người và đem chôn trong những hố chôn tập thể. Biết bao gia đình phải chịu tang tóc, đau khổ và tủi nhục mà người Mỹ chưa bao giờ hiểu đến, trong khi họ dễ dàng tin theo những tài liệu tuyên truyền của đối phương do giới truyền thông Tây phương chưng ra để phê bình cuộc chiến. Giới truyền thông này đã làm hoen ố đi nỗ lực của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam, góp phần vào sự xoay chiều của lập trường ủng hộ cuộc chiến.

Theo Botkin năm 68 là năm nổ bùng trận chiến thu phục nhân tâm người dân Hoa Kỳ qua màn ảnh truyền hình, và đối phương đã biết tận dụng lối tường thuật một chiều của báo chí Tây phương gây ảnh hưởng tốt cho mình thêm.

Botkin lưu ý rằng báo chí và phim ảnh Hoa Kỳ vẫn luôn miêu tả người Việt như là những kẻ tham nhũng thối nát, hèn yếu, khiếp nhược và phản bội hơn là những con người muốn chiến đấu cho tự do. Ông ta nói rằng “Ride the Thunder” trưng ra cho mọi người những câu chuyện truyền cảm mà truyền thông trước đây tránh né không muốn nhắc đến. Ðó là những câu chuyện về tình thân hữu, sự can trường, lòng yêu nước và lòng can đảm.

Ngày 23 Tháng Giêng năm 1973, Tổng Thống Mỹ Nixon công bố “Hòa Bình trong Danh Dự” trong một bài diễn văn phổ biến toàn thế giới trên hệ thống truyền hình.

Botkin kết luận, “Chúng ta nói vậy để rút chân ra khỏi Việt Nam cho có danh chính ngôn thuận. Lịch sử đầy dẫy những bài học cho thấy Cộng Sản ngồi xuống đặt bút ký biết bao hiệp định mà họ thấy có lợi, rồi sau đó lại phủi tay rũ bỏ. Ðúng là rút quân trong danh dự, hay ‘Hòa Bình trong Danh Dự’ – mà thật ra chẳng có chi là danh dự mà cũng chẳng có hòa bình gì ráo.”

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà

Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.

Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.

Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.

Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.

Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.

Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.

Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả… cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.

Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.

Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.

Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.

Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.

Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.

Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.

Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.

Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.

Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. Tất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.

Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.

Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?

Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.

Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.

Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.

Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?

Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.

Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.

Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? ngày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?

Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?

Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.

Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.

Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.

Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.

Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.

Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.

Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.

Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.

Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.(NPH in nghiêng)

Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm, đày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.

Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.

Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

(Tô Thùy Yên)

Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?

Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?

Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.

Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.

Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.

Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.

Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.

Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.

Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.
Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.

Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề “xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản”. Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà…. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai….

Nguyễn Thị Thảo An

Posted in: Chính Trị